Thứ Ba, 25 tháng 1, 2011

MÂY TRẮNG HỎI ĐƯỜNG QUA

Share |


HOA TỪ BI-
Ngày chánh niệm tại Non Nước, ngày 8/04/năm Ất Hợi (7/05/1995)
Cuộc hành trình, nếu không có bước khởi đầu, thì làm sao có bước thứ hai, thứ ba, những bước kế tiếp và đi dẫn đến đích.
Từ ngày thực tập chánh niệm tại Chánh niệm lâm và từ “Chánh niệm lâm” chúng ta có “Thạch niệm lâm”, từ Thạch niệm lâm chúng ta bước về “Thuyền Tôn tự”, “Quan Âm Phật đài”, “Hoài Nguyên Lâm” ở Thừa Lưu, “Thúy Vân Linh Thái” và giờ đây, Thầy trò chúng ta vượt đường xa qua đèo, qua núi để đi vào ngoại tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nơi có danh lam thắng cảnh, non nước hữu tình ngàn năm lưu dấu, đó là Ngũ Hành Sơn và chùa Linh Ứng để thực tập ngày tu học Chánh niệm.
Xe đưa đoàn tu học Chánh niệm gồm có ba chiếc, tập trung tại 3 địa điểm: Tây Lộc, Thành Nội và 56 Lê Lợi, đoàn xe chuyên chở khoảng 100 người khởi hành lúc 4 giờ 30’, cùng tại tụ điểm 56 Lê Lợi.
Cũng như thường lệ, tất cả học chúng về hình thức ăn mặc gọn gàng lịch sự, nét mặt trông tươi vui, phấn khởi mặc dù đêm đó không mấy ai ngủ sớm và dậy trễ đâu! Quý vị mang theo đầy đủ phẩm vật để cúng dường: hoa quả, trầm hương, dầu hỏa và không quên mang chút đặc sản của Huế là mè xửng đặc biệt và kẹo cau. Rồi mỗi người tay xách, vai mang, có những vị hai ba xách: thức ăn, nước uống, những đồ dùng cho ngày chánh niệm. Đi xa mà mang theo đồ đạc lỉnh kỉnh cũng rườm rà thật, nhưng tất cả đều muốn làm đẹp, có ý nghĩa và trang trọng trong ngày chánh niệm cũng như trong cuộc sống vậy.
Đoàn xe đưa Thầy trò chúng tôi rời Huế lúc mặt trời hừng đông và chẳng bao lâu đoàn xe đã vượt Phú Bài, Truồi, Nong... Nước ngọt, Thừa Lưu, Lăng Cô, và lên đến đỉnh Đèo
Đỉnh đèo cao hút gió
Bờ vực thẳm vô minh
Quanh co đồi núi hiểm
Xa phố chợ Phù Vân.
Gần đến đỉnh, Thầy trò chúng tôi xuống xe và thiền hành lên đỉnh, dừng lại 57 phút trên đèo và thong thả bách bộ xuống núi, vừa đi vừa ngắm cảnh, nhìn bầu trời xanh cao vời, trông xuống vực sâu thăm thẳm, cùng đoàn xe xa trông nhỏ nhoi, rì rầm, leo dốc núi, chúng ta thấy rõ sự tự tin của con người trước thiên nhiên hùng vĩ. Đoàn chúng tôi thanh thản với những bước chân nhàn du giữa đèo cao, núi biếc.
Rồi đoàn xe nối đuôi nhau vượt đường trường, lẹ làng, len lỏi lách qua những chiếc xe lớn kềnh càng chạy chậm rãi, xe lên xuống quanh co, khúc khuỷu nhưng vẫn bon bon vun vút trên đường dài thiên lý !
Mới Huế đó mà chừ Lương Chiểu, Kim Liên, Hòa Khánh và kìa tượng Đức Bổn Sư lộ thiên khổng lồ màu trắng tỏa, đường đi “Trưa Huế, xế Quảng” đã đến nơi rồi !
Đoàn xe qua Hòa Mỹ, Phước Tường đến ngã Ba Huế, xe rẽ phải, đi thêm mấy đoạn đường vùng chợ mới và xe từ từ qua cầu Delasse, cầu kiến trúc đơn giản, nhưng cứng rắn vững chắc như nói lên sức sống kiên cường đấu tranh dũng mãnh của người dân xứ Quảng.
Chúng tôi đến nơi, khoảng 9 giờ, xuống xe là chúng tôi tươi cười nhìn đá, sư tử đá, đồ gia dụng bằng đá với nhiều màu sắc rất đẹp, nhìn qua cũng tương tợ như hồng ngọc, bạch ngọc, túy ngọc đắt giá trong các cửa hiệu kim hoàn, có cả những chiếc vòng cẩm thạch cũng lên nước vân xanh, vân xám nhạt! Tiểu thủ công nghệ thì rất tỉ mỉ, công phu do bàn tay và trí óc của những nghệ nhân điêu khắc sáng tạo.
Đường lên Non Nước đục núi mà đi, tầng cấp dốc khá cao, nhìn những bậc đá đã nói lên sự kiên trì và công phu xây dựng. Mấy vị cao niên dìu nhau đi nhưng vẫn tươi vui tiến bước, chúng tôi nhờ Phật lực gia bị, vừa đi, vừa xách trong chánh niệm, nên cũng không thấy mệt, các em thanh thiếu niên nữ thoăn thoắt, lẹ làng lên chùa trước với những xách, giỏ nặng tay !
Kìa! Ngôi chùa thật nguy nga tráng lệ, kiến trúc hùng tráng, tân kỳ, chạm trỗ hoa văn với nhiều màu sắc rực rỡ. Chúng tôi đi thẳng vào sân chùa. Quý vị, người thì đến ngồi gần giàn hoa lan cạnh hồ nước để nghỉ chân sau khi lên dốc, kẻ thì lo sửa soạn lễ vật cúng dường. Chúng tôi được dạy mang hành trang cùng đoàn qua ngôi “Nhà Không”, nói theo ngôn ngữ thiền là “Phương trượng”. Ở đây một gian nhà rộng rãi, trống không thoáng mát, xin được phép lộng ngữ ví von: “ngôi nhà của ngài Duy Ma Cật”. Quý vị điều hành của chùa thật chu đáo lưu tâm! Chúng tôi giải lao khoảng 15 phút và tất cả chỉnh đốn lại tư thế. Quý Thầy và quý vị tăng sinh mặc áo vàng, chúng tôi mặc áo tràng tươm tất (nếu có), nghiêm trang xếp hàng một theo sau thầy thiền hành lên điện Phật.
Thầy làm chủ lễ, các vị tăng sinh xếp hàng đứng trước, chúng tôi xếp hàng hai bên, phía sau cùng với quý vị Phật tử địa phương đến lễ bái ngày hôm nay.
Thầy kính cẩn niêm hương và hành lễ. Sau nghi lễ, thầy dạy:
“ Thưa đại chúng, hôm nay ngày mồng 8 tháng 4 năm Ất Hợi, tức là ngày 7 tháng 5 năm 1995, tất cả chúng ta đã có cơ duyên về ngôi chùa Linh Ứng này, thuộc Thủy sơn ở trong Ngũ hành sơn để thực tập chánh niệm. Trước khi đi vào chương trình tu học chánh niệm, thầy công bố nội quy:
1. Ý thức tự giác cao: tự mình làm cho mình có an lạc.
2. Tất cả phải có tinh thần đồng đạo. Mặc dù “mỗi người, mỗi nước, mỗi non, bước vào cửa Phật là con một nhà”. Cho nên phải giúp đỡ, tạo điều kiện tu tập cho nhau.
3. Phải luôn luôn yêu chuộng môi trường sống, không lăm ?i?u gì thương tổn, ngay cả cỏ cây, hoa lá và làm thế nào để khi ra đi còn để lại hương thơm!
Sau đó, Thầy giới thiệu về địa thế: “Theo Đại Nam nhất thống chí, thì vị trí của Ngũ Hành Sơn: phía tây là sông cái nước luồn, phía đông của Ngũ Hành Sơn là biển cả mênh mông. Đỉnh cao nhọn và đẹp, trời tạnh nhìn xa sắc như mây gấm... tục gọi là Non Nước. Năm 1837 vua Minh Mạng sắc phong các núi ở Non Nước là Ngũ Hành sơn. Ngũ Hành sơn bao gồm: Thủy sơn, Hỏa sơn, Mộc sơn, Thổ sơn và Kim sơn. Chùa Linh Ứng nằm trong địa phận Thủy sơn.
Đồng thời Thầy lược giảng về nguồn gốc của chùa Linh Ứng tại Thủy sơn như sau: “Theo truyền thuyết, ngày xưa nơi đây có một bậc Tiên hiền ở làng Khải Đông, đã đến tu học ở động Tăng Chơn, là người đầu tiên khai phá xây dựng nơi này. Rồi theo thời gian chùa thay danh đổi hiệu, đến triều Thành Thái thì từ Ứng Chơn được đổi thành Linh Ứng. Hiện tại thượng tọa Thiện Nguyện đang trú trì ngôi chùa này.
Thầy nói tiếp:
Hôm nay, chúng ta về đây tu học trong cảnh quang trang nghiêm tráng lệ này, chúng ta không quên công lao của Tổ Đức, cũng như sự đóng góp của bao thế hệ tăng già, cư sĩ và những sự đóng góp ấy không những phản ánh văn hóa xứ Quảng mà còn là di sản văn hóa của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đạo cũng như đời, khi nhìn từng viên ngói, từng viên đá, cỏ hoa, ta sẽ cảm nhận sâu xa, không những chúng ta phải trân trọng truyền thống của Phật giáo Việt Nam nói chung mà Phật giáo Quảng Nam Đà Nẵng nói riêng nữa”.
Sau phần giới thiệu, chúng tôi theo gót chân thầy thiền hành vào động Tăng Chơn để dự buổi Pháp thoại.
Thật không biết làm sao để chúng tôi có thể diễn tả hết được cảnh kỳ bí, thiêng liêng và với cái tâm sùng kính trong cảnh thực hư mầu nhiệm này, chúng tôi chỉ biết lắng tâm cảm nhận...
Sau nghi thức thiền lễ, Thầy nói với hội chúng rằng:
“Hôm nay chúng ta có pháp thoại về Bông Hoa Từ Bi
- Thế nào là Bông hoa Từ Bi ?
- Hoa Từ Bi là hoa có khả năng chuyển hóa từ khổ đau đến an lạc, từ trói buộc sang tự tại, từ mù quáng đến trí tuệ, từ thù hận đến thương yêu và từ hệ lụy đến giải thoát.
Đó là bông hoa có khả năng chuyển hóa để hướng thượng !
Hoa Từ Bi là đóa hoa mang chất liệu giải thoát, chất liệu hạnh phúc, tươi mát.
Và khi đã có hoa Từ Bi thì cũng có hoa không Từ Bi.
Hoa không Từ Bi là loại hoa làm nên bởi những chất liệu ganh tỵ, tham lam, giận hờn, mù quáng, khinh mạn, do dự, nhận thức sai lầm bản thân, nhận thức một chiều, hiểu biết một góc c?nh. Hoa không T? Bi lă hoa cố chấp quan điểm sẵn có của mình, hoa tạo nên bởi chất liệu giáo điều, nhận thức sai lầm, không thấy rõ nhân duyên, nhân quả, chấp có, chấp thường, chấp không, chấp đoạn.
Bông hoa không Từ Bi hiện hữu giữa đời không có hương thơm, làm cho những người có duyên tiếp xúc với nó sẽ trở nên úa tàn, khô chết! Trái lại Hoa Từ Bi được tạo nên bởi những chất liệu sau:
1. Tình yêu: Tình yêu không vị ngã, không mang chất liệu ngã tính.
2. Tự kiểm soát lấy chính mình: Có khả năng kiểm soát tâm của mình để cho tâm không khởi lên vọng tưởng, điên đảo. Thân và ngữ cũng vậy, không nói những lời nói vô ích, không hành động những hành động điên đảo, vọng tưởng và từ sự kiểm soát đó mà trong đời sống bông hoa Từ Bi phát sinh chất liệu an lạc, tự do, tự tại.
3. Kiên trì và chịu đựng: Bông hoa Từ Bi có khả năng chịu đựng những trở ngại để rèn luyện chất liệu giải thoát. Vì vậy mà ngay trong lò lửa hoa vẫn nở tươi và vẫn tỏa hương thơm.
4. Không biến chất, không giải đãi, không biếng nhác mà tích cực, nhiệt tình: Hoa Từ Bi là bông hoa có khả năng biểu hiện tự tính vô ngã một cách tự nhiên, không bao giờ bị biến chất bởi thời đại; không lúc nào và không ở đâu mà không biểu hiện cái đẹp một cách tự nhiên của mình.
5. Bình tĩnh và thanh thản trước mọi vấn đề xảy ra với chính nó: Có bình tĩnh, nên hoa Từ Bi không bị thác loạn, manh động, điên đảo, vọng tưởng đối với mọi hoàn cảnh. Nhờ có chất liệu thanh thản, nên hoa Từ Bi thanh thản ngay ở nơi bận rộn.
6. Sự sáng suốt: Nhờ có chất liệu sáng suốt, nên hoa Từ Bi có khả năng soi chiếu để thấy rõ sự thật của vạn vật.
7. Biết thích ứng: Hoa Từ Bi biết thích ứng với mọi hoàn cảnh, mọi căn cơ, thời đại để chuyển hóa từ thấp lên cao, từ phàm phu lên Thánh.
8. Thệ nguyện: Không có hoa Từ Bi nào mà không phát khởi thệ nguyện. Đó là thệ nguyện thành Phật, thệ nguyện độ chúng sanh.
9. Năng lực tự tại: Loại hoa bình thường hay bị trói buộc bởi điều kiện, còn hoa Từ Bi không bị trói buộc bởi những gì tạo ra nó.
10. Trí tuệ: Chất liệu thông minh tạo nên bông hoa Từ Bi.
Trong mười chất liệu tạo nên hoa Từ Bi, có hai chất liệu nổi bật đó là chất liệu tình yêu và trí tuệ.
- Bằng chất liệu tình yêu, hoa Từ Bi hiện hữu mênh mông, bao la, không hạn chế bởi không gian và thời gian. Hoa Từ Bi hiện hữu bằng trái tim toàn vẹn và tinh khôi của mình.
- Bằng chất liệu trí tuệ, hoa từ bi thấy rõ bản chất của mọi sự vật mà không bị hình tướng bất thực của mọi sự vật đánh lừa. Hoa Từ Bi hiện hữu ở đâu cũng là hiện hữu của tình và lý. Trong tình có lý và trong lý có tình. Nếu chỉ hiện hữu một chiều thì rơi vào cực đoan.
Hoa Từ Bi làm chỗ nương tựa cho hết thảy chúng sanh và ai có duyên tiếp xúc với những bông hoa đó, thì sẽ có hạnh phúc không những ngày mai mà chính ngay đây và bây giờ.
Trong kinh Pháp Hoa có ghi rằng, lúc Phật Thích Ca Mâu Ni nói kinh Đại thừa tên “Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”, Ngài nói Kinh đó xong, liền ở trong đại chúng ngồi xếp bàng, nhập vào chánh định “Vô lượng nghĩa xứ, thân và tâm chẳng động” Khi ấy trời mưa hoa Mạn đà la, hoa Ma ha Mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa Ma ha Mạn thù sa từ trên hư không rãi xuống cúng dường Đức Phật và hàng đại chúng.
Hoa Mạn đà la là hoa sen trắng tinh.
Hoa Ma ha Mạn đà la là hoa sen trắng tinh vĩ đại trùm khắp mười phương.
Hoa Mạn thù sa loại hoa sen đỏ cánh rất mịn.
Hoa Ma ha Mạn thù sa là hoa sen đỏ vĩ đại, hương thơm mênh mông, rộng lớn cùng khắp. Và đó là biểu tượng cho bốn hàng Bồ Tát: Thập trú, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, đang hành đạo khắp mười phương thế giới ??u tr? v? núi Linh Thứu, dự phần vào Pháp hội Nhất thừa.
Hoa Mạn đà la là biểu tượng cho hàng Bồ Tát đã khơi mở được tri kiến giác ngộ.
Hoa Ma ha Mạn đà la là biểu tượng cho hàng Bồ tát đã hiển thị được Phật tánh, Tuệ giác ở ngay nơi chính mình.
Hoa Mạn thù sa là biểu tượng cho hàng Bồ tát đã chứng ngộ Phật tánh, chứng ngộ Tuệ giác ngay ở nơi chính mình và luôn luôn có tâm hạnh mong cầu cho hết thảy chúng sanh đều chứng ngộ tuệ giác, chứng ngộ Phật tánh.
Hoa Ma ha Mạn thù sa là biểu tượng cho hàng Bồ tát sắp sửa chứng nhập trọn vẹn Tuệ giác và sắp sửa sống trọn vẹn với Tuệ giác đó.
Hoa Từ bi là bông hoa tạo nên từ sự tu tập và đó là sự tu tập từ bi và trí tuệ. Sự tu tập ấy có hương thơm theo chiều gió và ngược chiều gió, có hương thơm bay khắp bốn phương, bay khắp mọi thời gian và mọi không gian. Cho nên, chúng ta tu tập nguyện không làm loài hoa thường tình sinh diệt mà chúng ta nguyện làm hoa Từ Bi.
Ta nguyện sống một ngày trong chánh niệm, kiểm soát lại tâm hồn, lời nói, cách sống để xem chúng ta có bao nhiêu chất liệu của hoa Từ Bi, nếu đã có thì chúng ta giữ gìn, nuôi dưỡng, làm tăng trưởng thêm lên và chúng ta soát xét lại chúng ta có những gì không phải là bông hoa Từ Bi, thì chúng ta sẽ gạn lọc, lựa chọn, để chuyển hóa thănh chất liệu của bông hoa Từ Bi và làm cho hương thơm tỏa bay khắp mười phương”. ( Bấm đọc tiếp )Sau bài Pháp thoại Thầy dạy: Mỗi một thiền sinh tự chọn chỗ ngồi để thực tập chánh niệm. Chúng tôi thực tập thiền tọa một góc động chênh chênh dưới chân Phật, tại động Tăng Chơn. Chúng tôi nhìn lên và chiêm ngưỡng Ngài và cảm nhận sự từ bi vô hạn, sự tự tại vô cùng với nụ cười bao dung, thanh thản. Rồi chúng tôi soát xét lại tâm tư như những lời Thầy chỉ dạy trong bài pháp thoại. Và trong niềm pháp lạc, chúng tôi bộc khởi mãnh liệt những chất liệu của bông hoa cao quý, và giây phút này tự gạn lọc, đào thải những chất liệu của loài hoa luân lưu sinh diệt.
Bài Pháp thoại với chúng tôi là sự chuyển hóa mầu nhiệm, là sức sống trao truyền và là mục đích tu tập trong cuộc đời chúng tôi. Đó là bản chất của Đạo, của giác ngộ, giải thoát ngay đây, bây giờ và sẽ mãi mãi mai sau. Chúng tôi như được bảo bọc bởi suối nguồn tươi mát cho đến khi nghe tiếng lắc linh báo hiệu xả thiền.
Chúng tôi chánh niệm đứng dậy, đến ngay tượng Phật và đảnh lễ Tam Bảo ba lạy, tưởng niệm đến các bậc phạm hạnh, Tổ đức đã dày công tạo dựng nơi đây và biết đâu với bản nguyện, các Ngài vẫn còn tiếp tục có mặt nơi đây! Đồng thời, chúng tôi chí thănh tri ân những bậc đã trao truyền giáo pháp, khai mở cách nhìn, cách suy tư, cách sống cho chúng tôi. Và rồi chúng tôi thiền hành lên hang gió, đường tuy dốc đứng, chúng tôi gặp những tượng Phật, vị thì thiền tọa ở hang động này, vị thì tự tại ở góc động kia, chính nhờ thế mà chúng tôi thư thái leo lên gần khoảng không, có vòm trời xanh, có thể nhìn thấy mây bay về nơi không trú ngụ. Sau đó đoàn chúng tôi tuần tự thiền hành trở lại “phương trượng”.
Bữa ăn trưa bắt đầu đúng 12 giờ, những khoanh cơm bới trắng tinh, xôi đậu xanh mềm dẻo, bánh mì... các món ăn cao cấp như: canh kim châm nấu nấm tươi và đậu ngự, mì căng xào chua ngọt với thơm và nấm, măng non kho khuôn đậu, mướp đắng kho rim, bắp giả ram dòn, muối sả đậu phụng đậm đà, tương chao xì dầu cay cay mặn miệng... đó những hương vị hấp dẫn của thiền môn, và cũng không quên món ăn tươi mát là xà lách dắp cá, dưa gang trộn gỏi. Ở đây, cũng không thiếu các thứ bánh lọc bọc cà rốt nấm mèo, bánh chưng Nhật Lệ, bánh ngọt Trung Quốc, thật trăm hoa đua nở, mỗi người mỗi tay “nữ công gia chánh” đã tạo nên một thực đơn dồi dào hấp dẫn của bữa ăn “thiền duyệt thực” để tiếp sức cho phần tham quan leo nhi?u dốc núi và thiền đàm tại đèo Hải Vân.
Trong khi ăn, mọi người đã ăn trong không khí tươi vui, thong thả tự nhiên và đạo vị. Tội nghiệp, có mấy em thuộc địa điểm Tây Lộc đi trễ xe, phải về trạm An Cựu mua vé và tiếp tục cuộc hành trình, nên chi các em ăn trễ, tuy thế thức ăn cho các em cũng đầy đủ.
Sau bữa ăn, mấy chị em chúng tôi cùng nhau xếp dọn đồ đạc, gom góp gọn gàng, quét sạch trong ngoài và cùng các em Phật tử tại chùa giải quyết những đống lá bánh, bao, bì, vỏ cam, vỏ quýt... và hoàn trả những đồ dùng của chùa, các em rất nhiệt tình hoan hỷ, chúng tôi không quên ngỏ lời cảm ơn!... sau đó chúng tôi tuần tự đi tham quan. Vì thời gian có hạn, nên chúng tôi không ngắm kỹ, chỉ lướt qua hồ, cá đỏ bơi lội tung tăng, cá ở đây cũng rất hạnh phúc! Chúng tôi leo lên nhiều bậc tháng đá, hoa Sứ nở rộ tỏa mùi thơm dễ chịu, tôi tưởng chừng như đâu đây hương hoa tỏa xuống tự mây trời! Đến đâu chúng tôi cũng chiêm ngưỡng tượng Phật. Với sự mầu nhiệm của tạo hóa, phối hợp với trí óc siêu phàm đạo vị của con người đã tạo nên những thắng tích kỳ bí. Tôi quanh quẩn ở tượng Phật Bổn Sư ngoài trời, đang được quý Phật tử chuẩn bị thiết lập lễ đài cho ngày Phật đản sắp tới, tâm tư tôi xin được phép dùng lời thơ của một thiền sư để ca ngợi:
Đường xưa còn một lối
Ngôn ngữ vượt qua rồi
Ôi, đất trời mầu nhiệm
Còn chăng một nụ cười!
Dù thời gian hạn định, chúng tôi cũng đã đi các động xa hơn, huyền bí và thần thoại như động Huyền không, Linh Nham, và Hoa Nghiêm ...
Vào 1 giờ 45 phút, đoàn chúng tôi được Thầy chỉ thị chuẩn bị rời Non Nước. Sau khi Thầy từ giã quý vị điều hành ở chùa, chúng tôi với hành trang gọn nhẹ trên vai, trang nghiêm vái lạy giữa đất trời và cùng nhau thong thả xuống núi trầm lắng và trật tự như khi lên Non vậy.
Hai bên đường dốc đá, khách thập phương và du khách nước ngoài với nhiều màu sắc, nét mặt tươi cười, có lẽ tất cả đều hân hoan ngưỡng mộ, mặc dù đường dốc và nắng. Chúng tôi có thỉnh một tượng Phật lưu niệm, du khách và bạn bè chúng tôi đã làm hạnh bố thí, san sẻ với những kẻ bất hạnh niềm vui nho nhỏ nói lên sự ưu ái của tình người!
Hai giờ, đoàn xe rời Non Nước, xe chạy đến đường Bà mẹ Anh hùng và chúng tôi vẫy tay chào tạm biệt vùng Quảng Nam Đà Nẵng.
Đến Hòa Khânh khoảng 2 giờ 30 phút, Thầy trò chúng tôi ghé lại chùa Quang Minh. Đoàn chúng tôi lên điện Phật, chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường phước sương và xuống sân chùa ngắm hoa. Ở đây, có giàn hoa leo màu xanh ngát dịu dàng, nhu nhuyễn và có một loại hoa rất lạ đối với tôi, thân và lá màu túy lục, hoa trắng ngà tinh khiết e ấp nụ hoa, có lẽ thuộc dòng họ hoa lan. Hỏi ra, tên hoa là Quan Âm. Bông hoa thì xa lạ,û nhưng tên hoa thân thương không biết tự bao giờ !
Đến chùa nào cũng để lại trong tâm tư chúng tôi những niềm vui nhẹ nhàng, thanh thản. Và hôm nay, đặc biệt quý sư bà, sư cô ở đây đã ưu ái đến thầy trò chúng tôi và sau cùng, thầy trò chúng tôi đã mang tặng phẩm theo xe về Huế. Đoàn chúng tôi rất cảm động và nhủ thầm khi nào hội đủ nhân duyên sẽ trở lại.
Và đây là chuyến về đặc biệt, thầy trò chúng tôi mang quà đường xa về cho quý vị ở Huế thọ dụng, có thể là hôm nay có các em Phật tử làm lồng đèn Phật đản, có thể là các chú, các điệu... dùng. Chắc là khi ăn, ai cũng tươi cười cảm động trước sự ân cần “của chẳng bao nhiêu đồng mà công khó quý sư cô mấy lượng!”
Ba giờ, thầy trò chúng tôi kiếu từ. Xe chuyển bánh trực chỉ Hải Vân lâm.
Chẳng mấy chốc đoàn xe lên đèo và dừng lại sát đồi thông, đoàn thực tập thiền đàm tại đây.
Sau nghi thức thiền đàm, thầy dạy: “Khi những thiền sinh trả lời công án, thì các thiền sinh khác lắng nghe và tập giữ tâm bình thản, vô phân biệt, không thiên kiến, mọi người tự do phát biểu theo ý của mình trong thiền vị, và buổi thiền đàm bắt đầu bằng công án: “Trong cuộc sống của bạn, cái gì làm chủ ?”.
Trước tiên là một thiền sinh nữ đáp án:
“Theo kinh Pháp Cú là do “Tâm làm chủ”, tâm tạo tác, nếu với tâm nhiễm ô, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như bánh xe lăn theo chân vật kéo!” và tuần tự các thiền sinh khác cũng phát biểu tương tự, hàm ý cũng không ra ngoài “Tâm làm chủ”.
Chúng tôi suy tư về bức tranh “Thập mục ngưu đồ”, thường treo trong nhà thiền và rồi cũng chập chững bắt chước, tập trả lời theo ngôn ngữ ngắn gọn.
Cũng có nam thiền sinh trả lời rằng, bằng những động tác nói lên sự suy tư của tâm, chúng tôi không ghi lại sự suy luận vì mấy ai đoán được tâm ai, ví phỏng cuộc đời này có mấy ai là Bá Nha và Chung tử Kỳ ?! Nếu không khéo, mình đem cái tâm chúng sanh của mình mà suy diễn là vô tình đặt vào cái tâm siêu phàm bạt tục của kẻ khác, thì sẽ rơi vào quan điểm vọng tưởng.
Và sau đó, có một vị tăng sinh trả lời tương tự như sự phát biểu của một thiền sinh lão thành đã thọ Bồ tát giới. Theo đáp án của vị tăng sinh, thì : Chánh niệm tĩnh thức làm chủ trong đời sống của chúng ta”. Quả thật, như tấm gương phản chiếu, người chân chánh, hiền hòa, thì chỉ suy tư điều chánh và tĩnh thức chánh niệm làm chủ. Còn với cái tâm chúng sanh chay của chúng tôi đây chưa thuần thục, khi thì thiện, lúc thì ác, khi thì phàm, lúc thì thánh sai khiến, điều hành, cho nên, còn đứng xa ngoài ngõ thiền môn! Âu đó cũng là Pháp nhĩ như thị! Vậy, chúng tôi cần phải có sự suy tư, phải cố gắng tu tập mỗi ngày, mỗi chuyển hóa để có đôi chút chất liệu của bông hoa Từ Bi.
Hội chúng đã thiền ca và thiền đàm trong niềm vui an tịnh giữa đồi thông xanh mát và gió biển rì rào...
Im lặng trong giây lát và Thầy hỏi nhỏ: Mấy giờ ...?
Bây giờ, Thầy bắt đầu đứng dậy, chắp tay ngang ngực. Chúng tôi chỉnh đốn tư thế ngồi cùng chắp tay ngang ngực, lắng nhìn từng bước chân đi... Th?y ?i từng bước thiền hành qua mặt tất cả học chúng, gót chân là tụ điểm của bàn chân. Thầy đi tiếp đến chỗ đặt bình hoa, nhẹ nhàng bưng bình hoa lên ngang ngực, nét mặt hiền hòa nhìn rõ bông hoa và xoay chiều hoa vào trước ngực, rồi đi về chỗ ngồi. Thầy khoan thai đặt bình hoa trước mặt, nhìn tất cả hội chúng và nói với âm thanh rõ ràng, trong sáng: “Tâm thiện là chủ của cõi Thánh. Tâm ác là chủ của cõi chúng sanh. Thiện và ác là hai mặt của Tâm. Nhưng tâm không có hình tướng, không có màu sắc, thì chúng ta diễn đạt về tâm chẳng qua chỉ là ngôn ngữ giả định mà thôi. Tâm phải là tâm kia mà, chứ đâu phải là ngôn ngữ!
Bạn cứ bước đi, những bước chân có ý thức chánh niệm, thảnh thơi, đi, đứng, nằm, ngồi trong chánh niệm tự giác, thì bạn là chủ của bạn, nếu bạn sống vội vã, bồn chồn, thì bạn đã bán đứng bạn cho chúng sanh, cho vọng tưởng.
Nếu đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng trong chánh niệm, thì bạn sẽ có hạnh phúc.
Tâm là một dòng sông chảy liên lỉ. Tâm phải là ông chủ kia mà! Chứ không phải ông chủ mang ý nghĩa ông chủ ước lệ! Theo kinh Hoa nghiêm “Tất cả đều tác động bởi tâm, nên khổ đau hay an lạc đều do tâm tác động. Giờ đây, chúng ta ngồi giữa núi rừng và cảm nhận sự an lạc, trong khi bao nhiêu người cũng ở giữa núi rừng mà nào có thấy an lạc gì đâu? Cho nên, an lạc là phải sống thực để thấy rõ từ nơi tâm, chứ không phải do cảnh. Vậy tâm làm chủ, tâm tạo tác, tâm dẫn đến hành động”.
Thầy cũng đã ngõ lời nhắc nhủ: “Quí vị đã đáp án mỗi người mỗi vẻ, phản ảnh tự tâm của mình, tuy nhiên không nên tự cho mình đúng hoặc nghĩ rằng mình sai mà chỉ nên suy tư trong chánh niệm”.
Thầy dứt lới, tất cả hội chúng đều đứng dậy, chắp tay ngang ngực, Thầy nói tiếp: “Giờ đây chúng ta thành kính tưởng niệm và vô cùng biết ơn đối với Tam Bảo, các vị Sơn thần, Thổ thần, Long thần, Lâm thần... các vị hiện có mặt hoặc ẩn khuất, xin quý vị hãy ghi nhận tấm lòng tri ân sâu sắc của Thầy trò chúng tôi trong buổi tụ tập này, nếu có điều thiện nào, thì xin hồi hướng đến quý vị để ông chủ ác trở về với ông chủ thiện và nếu có điều gì không vui, xin quý vị vui lòng chuyển hóa để trở thành bông hoa Từ Bi bất tử “.
Hội chúng cùng Thầy tụng bài hồi hướng:

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành phật đạo.
Âm thanh của lời kinh hồi hướng tỏa rộng đến vô cùng!
Trời đã về chiều, chúng tôi tuần tự xuống đồi thông và đoàn xe chuyển bánh, ngoài khơi biển xanh mênh mông sóng lặng hiền hòa !
Xe đến ngang đèo, mây bay lờ lững quyện cùng với núi đá, chúng tôi bỗng cảm nhận:
Sương khói chiều nay trên đỉnh đèo, đường về theo nhịp bước chân ai, in trên núi biếc gầy thân hạc ... và những vần thơ trong tập “Sương đọng ven trời”:
“...Đi không lưu một dấu hài
Ngày về cũng vượt ra ngoài có không...”
Phải chăng, những bước chân “từ thiên hà xa xôi trở về trái đất” hay những bước chân chừ đi trong cõi phù trần đều đến như mây bay và đi như gió thoảng, mà đường mây thì mênh mông không lộ và gió kia đang trú ngụ nơi nào, tùy duyên mà tụ tán, tùy duyên mà đem sự tươi mát, an lạc đến, đi giữa dòng đời với tâm vô điểm trú.
Xe về đến Huế, thành phố đã lên đèn. Đường tuy xa mà tất cả hầu như không thấy mệt, thật an toàn, hạnh phúc. Chúng tôi nhìn hai vị quay phim và nhiếp ảnh như hứa hẹn ngày Phật đản, lúc 3 giờ tại chùa Phước Duyên (như lời Thầy dặn) để được xem những hình ảnh ghi lại đẹp và đầy đủ ý nghĩa về ngày thực tập chánh niệm.
Đoàn xe và tất cả học chúng đã về đầy đủ tại tụ điểm 56 Lê Lợi, trước khi trả học chúng về các địa điểm Tây Lộc - Thành Nội. Chúng tôi chia tay nhau bằng nụ cười tươi vui thân quí và trong tự tâm tôi khởi niệm danh hiệu Đức Bồ tát Quán Thế Âm.
Chúng tôi thiết nghĩ, máy quay phim và máy ảnh cũng như tâm quí vị là những phóng viên bén nhạy linh động và kinh nghiệm, chắc chắn ghi nhận chính xác và đầy đủ nhiều.
Riêng chúng tôi, cũng xin được góp nhặt ghi lại một cách tương đối và còn nhiều khiếm khuyết để được cùng quí vị nói lên cuộc hành trình tu tập chánh niệm đường xa, mong sao quí vị ở nhà có thể hình dung cảm nhận đôi nét sinh hoạt trong ngày tu học mồng 8 tháng 4 năm Ất Hợi (1995), tại Non Nước, Đà Nẵng.
Quả thật “đường đi không khó vì ngăn sông cách núi mà khó lòng người ngại núi e sông”, và một khi với những tâm hồn hiền thiện làm chủ, trong sự quyết tâm tu học như ngày hôm nay, thì cho dù “Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua!” Huống chi, chừ đây đã rõ kiếp người trong từng hơi thở mong manh và nhìn lại thân tâm, nào ta đã có chút gì đâu gọi là hành trang mang theo trong cuộc hành trình dài đăng đẳng, để mong có cơ duyên thoát ly sinh tử luân hồi.
Học trò Nhuận Thiều Nguyên kính ghi


VU LAN

Pháp thoại T T Thích Thái Hòa giảng cho học chúng chánh niệm tại chùa Phước Duyên, Huế, ngày 05/ 09/1998(15/ 07/ Mậu Dần) do các đệ tử Nhuận Từ Nguyên, Tịnh Phương và Tâm Hải phiên tả.

Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật,
Thưa đại chúng !
Hôm nay là ngày lễ Vu Lan. Vu Lan tiếng Phạn gọi là Ulumpana, nó có rất nhiều nghĩa, nhưng nghĩa căn bản của Vu Lan là “Giải đảo huyền”. “Huyền” nghĩa là sợi dây. Mở sợi dây cho người đang bị cái khổ treo ngược, gọi là “giải đảo huyền”.

Hãy mở sợi dây:
Thưa đại chúng !
Có cái khổ nào khổ hơn người đang bị treo ngược, người bị treo ngược đó có thể là cha mẹ ta, có thể là người ta thương yêu, có thể là tổ tiên ông bà nội ngoại của ta, cũng có thể đồng loại của ta và rộng ra nữa có thể là pháp giới chúng sanh.
Sở dĩ bị treo ngược, là bởi vì do miệng của họ nói ác, thân của họ chuyên làm ác, tâm của họ chuyên nghĩ ác. Nói ác là nói những lời bất hi?u v?i cha, v?i m?, b?t hi?u v?i tổ tiên ông bà. Nói ác tức là nói những lời không đưa đến sự hòa hợp đoàn kết hữu ích, nói không chân thật. Do nói những lời nói như vậy, đưa đến quả báo bị treo ngược.
Thân làm ác là làm như thế nào? Là làm những điều gây đau khổ cho mọi người, như giết hại, trộm cắp, tà dâm..., đó gọi là thân làm ác. Tâm nghĩ ác, là tâm luôn luôn nghĩ đến những điều ích kỷ hẹp hòi, tham lam, bần tiện, hận thù, trách móc, tâm nghĩ như thế gọi là tâm nghĩ ác.
Khi tâm đã nghĩ ác, miệng đã nói ác, thân đã làm ác, nhất định sẽ đưa đến quả báo làm ta bị treo ngược. Treo ngược ở trong đời sống của ngạ quỷ, của súc sinh, của địa ngục. Tuy nhiên, sợi dây treo ngược chúng ta, treo ngược cha mẹ chúng ta, treo ngược tổ tiên chúng ta, chúng ta rất dễ thấy, nhưng mà sợi dây treo xuôi chúng ta, treo xuôi cha mẹ chúng ta, treo xuôi ông bà chúng ta và khi bị treo xuôi như vậy, thì rất khó thấy, bởi vì sợi dây treo xuôi có khi nó lại êm ái, dễ chịu, nhưng mà lại cột chúng ta rất chặt.
Sợi dây treo xuôi đó là gì ? Đó là phước báo của cõi trời, cõi người. Phước báo của cõi trời, cõi người, đôi khi chúng ta bị cái phước báo đó cột chúng ta rất chặt. Phước báo của cõi trời là chúng ta có thể làm đến Phạm Thiên, Đế Thích hoặc là phước báo cõi người, chúng ta có thể làm đến vị Chuyển Luân Thánh Vương ở trong thiên hạ, hoặc là chúng ta có thể rất giàu có. Tất cả những phước báo đó, còn nằm ở trong sinh tử luân hồi, đang còn nằm ở trong cái bị già, cái bị bệnh, cái bị chết và còn bị tái sinh! Nó còn nằm trong cái mơ ước mà không thành, đang còn nằm trong tình trạng chấp ngã, và chính những cái đó là sợi dây treo xuôi chúng ta và chúng ta khó thoát ra khỏi bởi sợi dây đó, vì nó rất là mịn và sợi dây đó nó treo xuôi mình, một đôi khi mình thấy dễ chịu, và thấy thích thú với nó nữa. Do đó, mà chúng ta bị sợi dây treo xuôi ở trong thế gian cột rất chặt.
Bây giờ đây, ngày Vu Lan trở về hàng Phật tử chúng ta tha thiết mở sợi dây treo ngược cho bản thân chúng ta, cho cha mẹ chúng ta, cho tổ tiên, ông bà nội ngoại chúng ta, cho những người chúng ta yêu thương, nhưng đồng thời chúng ta cũng nhìn bằng con mắt thật sâu, để tìm cách mở sợi dây treo xuôi nơi tự thân của mỗi chúng ta, treo xuôi cho cha mẹ chúng ta, treo xuôi cho ông bà nội ngoại chúng ta nữa. Bởi vì, bị treo ngược hay treo xuôi, cột ngược hay cột xuôi cũng đều là bị cột cả. Và mục đích tu học của chúng ta là để vượt ra khỏi tình trạng của những kẻ bị treo ngược và bị treo xuôi ở trong Tam Giới. Chúng ta tu tập là để cầu nguyện cho cha mẹ chúng ta, cho ông bà tổ tiín nội ngoại chúng ta không bị treo ngược, hay treo xuôi ở trong tam giới, như vậy mới là người con đích thực có hiếu, là người con đích thực có nghĩa, là người con đích thực có tình đối với cha mẹ của chúng ta, đó là người cháu hết lòng đối với ông bà, tổ tiên nội ngoại của chúng ta.

Con mắt Thánh và Sự cầu nguyện:
Đại chúng thường tụng kinh hay cầu nguyện, cho bảy đời cha mẹ của chúng ta. Tại sao mình không cầu nguyện cho tám đời, chín đời, mười đời, ba mươi đời mà cầu nguyện cho bảy đời. Trong Phật giáo, lấy con số 7 mà làm mục tiêu cho sự cầu nguyện đối với cha mẹ của chúng ta, nó có một ý nghĩa hết sức sâu sắc và quan trọng. Sỡ dĩ gọi là 7 đời, vì con số 7 trong Phật giáo nó có liên hệ đến sự chuyển hóa sinh tử.
Quý vị biết rằng, khi một vị xuất gia tu học mà chứng được Thánh quả Dự lưu, tức là hội nhập vào dòng dõi của bậc Thánh, thì vị đó tự biết rằng, mình còn bảy đời sinh tử, tức là mình phải còn liên hệ đến bảy đời cha mẹ của thế gian nữa. Hoặc khi một hàng cư sĩ tại gia mà có niềm tin sâu sắc đối với Tam bảo và tu tập chứng được Thánh quả Dự lưu, thì quý vị ấy cũng thấy được rằng, mình còn bảy đời sinh tử, nghĩa là mình còn phải liên hệ đến bảy đời cha mẹ nữa. Còn mình không chịu tu hành, không có ni?m tin gì n?i Tam Bảo, chỉ tu chơi chơi vậy thôi, thì mình cứ mênh mang hoài trong sinh tử. Còn vị cư sĩ mà có niềm tin thuần tịnh đối với Tam Bảo, vị đó có thể chứng được Thánh quả Dự lưu và vị đó thấy rằng, biên cương sinh tử của đời mình chỉ còn bảy lần nữa thôi và những vị xuất gia tu học, giới luật tinh chuyên giảm bớt tham, giảm bớt sân, loại trừ thân kiến thủ, loại trừ giới cấm thủ, loại trừ nghi ngờ ra khỏi tâm thức của mình, họ chứng được Thánh quả Dự lưu, vị đó biết rằng, mình chỉ còn bảy đời sinh tử ở trong Dục giới nữa mà thôi. Cho nên, vị ấy trở lại Dục giới, chết đi sống lại bảy lần, bảy lần có cha và mẹ. Nên, nói bảy đời cha mẹ là nói theo cách nhìn nhận sự liên hệ đối với cha mẹ của một bậc Thánh Dự lưu.
Nếu mình không tu tập gì hết, thì có đôi khi cha mẹ ở một bên mình, mà mình cũng không nhận biết, hoặc mình sống không có đạo lý của con người, một đôi khi cha mẹ của mình sống một bên mình nhưng mình coi rẽ, xem thường, và dễ gây khổ đau cho cha mẹ của mình nữa. Hoặc là khi không có quyền lợi gì, thì ta thương cha, thương mẹ ta, nhưng khi có một chút quyền lợi liên hệ giữa cha mẹ và con cái, thì ta lại đấu tranh kịch liệt đối với cha mẹ ta và ta xem cha mẹ ta như những kẻ thù, và cha mẹ có th? b? đấu tố bởi con cái.
Trái lại, khi một hàng cư sĩ hay một hàng xuất gia chứng được Thánh quả Dự lưu, vị đó biết rất rõ đời sống của họ liên hệ đến bảy đời cha mẹ. Biết rất rõ sự tái sinh trong bảy đời, ai là cha mình, ai là mẹ mình. Cho nên, trong Phật giáo nói rằng, mình phải luôn luôn nghĩ đến công ơn của bảy đời cha mẹ.
Do đó, ngày Vu Lan về, hàng Phật tử chúng ta học theo hạnh Thánh, qui y Phật, quy y Pháp, qui y Tăng, giữ gìn năm giới là chúng ta bắt đầu đi trên con đường Thánh, chúng ta bắt đầu thực tập hạnh thánh, bắt đầu tập nhìn cuộc đời bằng con mắt Thánh, nên chúng ta làm điều gì, nói lời gì, nghĩ việc gì đều nghĩ đến sự liên hệ của chúng ta với cha mẹ chúng ta trong bảy đời.

Cha mẹ trong đôi mắt bồ tát:
Càng thực tập như vậy, chúng ta lại càng có cách nhìn sâu sắc hơn, không những chỉ là cách nhìn của một bậc Thánh mà còn là cách nhìn của một vị Bồ tát nữa. Cách nhìn của một vị Bồ tát, không những chỉ nhìn sự liên hệ giữa mình với cha mẹ bảy đời mà còn vô số đời. Bồ tát thấy rằng mình đã có bao nhiêu thân là có bấy nhiêu đời cha mẹ. Nên, Bồ tát không phải chỉ tu tập cho mình mà còn phải tu tập cho tất cả mọi người, tu tập là để đền ân và báo ân cho tất cả mọi người và mọi loài, tu tập không phải chỉ để đền ân cho cha mẹ một đời hay bảy đời mă vô số đời. Và Bồ tát không phải chỉ cầu nguyện cho bảy đời cha mẹ mà còn cầu nguyện cho cả pháp giới đa sanh phụ mẫu. Nên, Bồ tát làm gì cũng nghĩ đến ân nghĩa của pháp giới đa sanh phụ mẫu.
Bởi vì, Bồ tát thấy rõ thân thể của mình là thân thể được sinh ra từ pháp giới đa sanh phụ mẫu. Nên, thân thể nầy là thân thể của toàn thể vũ trụ, nó có mặt khắp mọi không gian và mọi không gian đang có mặt trong thân thể nầy, nó có mặt khắp mọi thời gian và mọi thời gian đang có mặt khắp thân thể nầy. Cho nên, Bồ tát làm gì là liền nghĩ đến pháp giới đa sanh phụ mẫu, vì Bồ tát thấy rõ, thân của Bồ tát không phải sinh ra đây một lần mà cả hằng tỉ tỉ lần, vô số lần và cũng không phải bỏ thân này một lần, mà Bồ tát bỏ thân không phải là hết, bỏ thân này là để tiếp tục sống với thân khác, sống với hằng hà sa số kiếp thân, sống với vô cùng thân, với vô tận thân, với vô biên thân. Và khi mà một sự sống đã đi tới với cái vô cùng, vô tận, vô biên như vậy, thì chính cái vô cùng, vô tận, vô biên đó là cha, là mẹ của mọi sự sống.
Cho nên, mặt trời cũng có thể là cha, là mẹ của ta, trái đất cũng là cha, là mẹ của ta, đại dương, dòng sông cũng có thể là cha, là mẹ của ta, không gian cũng có thể là cha, là mẹ của ta, tâm thức c?ng có thể là cha, là mẹ của ta. Bởi vì, sự hiện hữu của chúng ta đặt trên nền tảng của tâm thức và cái sắc thân này cũng đặt trên nền tảng của tâm thức, nên tâm thức là cha, là mẹ của ta mà tâm thức là vô cùng, vô tận, vô biên, siêu thời gian, siêu không gian, do đó khi ta làm cái gì, ta luôn luôn nghĩ đến pháp giới đa sanh. Ta tu là tu cho pháp giới đa sanh phụ mẫu, ta học là học cho pháp giới đa sanh phụ mẫu, ta thở là thở cho pháp giới đa sanh phụ mẫu, ta cười là cười cho pháp giới đa sanh phụ mẫu, ta ăn là ăn cho pháp giới đa sanh phụ mẫu, ta đi là đi cho pháp giới đa sanh phụ mẫu, ta mặc áo là mặc cho pháp giới đa sanh phụ mẫu và có như thế, ta mới thấy rằng, ta là vô cùng, vô tận, vô biên và ta chỉ nghĩ như vậy thôi là ta đã có hạnh phúc rất lớn. Trong đời sống, ta không có hạnh phúc, là vì tâm ta cạn cợt, trí ta thiển cận, tầm nhìn của ta không ra ngoài gang tấc, nên sống giữa trời đất mênh mông mà ta vẫn nghèo cùng, đi giữa ánh sáng mà ta chẳng thấy được con đường, ngồi ở trong mâm cơm cam lồ mà lại bị chết đói, thật là xót xa.

Phật tính là cha mẹ:
Khi cha ta chết, cái đẹp nhất, cái cao quí và tinh anh nhất nơi cha ta được gọi là Thần hồn, khi mẹ ta chết, cái đẹp nhất, cái cao quí và tinh anh nhất nơi mẹ ta được gọi là Linh hồn. Thần hồn, nghĩa là cha ta khi xả bỏ cái thân này, là Người trở về hòa nhập với cái hồn của trời và hồn ấy, vận chuyển khắp cùng trong vũ trụ, và nó chuyển vận rất nhanh, cho nên gọi là Thần hồn. Và vì nó cũng có tính cách nhanh chóng, linh hoạt, phi phàm, nên gọi là Thần hồn. Linh hồn, nghĩa là khi mẹ ta bỏ ta đi xa, không sống với ta nữa, thì mẹ ta trở về hội nhập với cái Linh khí của đất, trở về với lòng đất và hòa nhập với cái Linh khí của đất, nên gọi là Linh hồn. Bởi vậy, người xưa nói rằng “cha là trời, mẹ là đất”. Tinh anh của trời là Thần khí, tinh anh của đất là Linh khí.Thần khí và Linh khí gặp nhau tạo ra Sinh khí và khiến cho muôn vật khởi sinh, và khiến cho chúng ta biết đi, đứng, nói, cười,... Nên, khi mẹ ta bỏ ta ra đi là mẹ ta trở về với Linh khí của đất, khi cha ta bỏ ta ra đi, là cha ta trở về lại với cái Thần khí của trời. Thần khí hay Linh khí của trời đất đều là duyên khởi không có tự tính, và từ nơi pháp tính không có tự tính ấy mà Thần khí và Linh khí sinh khởi, nín phâp tính lă cha m? c?a muôn loài, của vạn hữu. Và Thần khí, Linh khí ấy ở nơi con người, ở nơi chúng sanh, thì gọi là Linh giác hay Phật tính, nên Linh giác hay Phật tính là cha mẹ của hết thảy chúng sanh. Vì thế mà trong các kinh điển Phật Giáo Đại Thừa, Đức Phật dạy, hết thảy chúng sanh đều có phật tính là vậy. Nên, trong tất cả chúng ta đều có chất liệu cao cả, quí báu và linh thiêng đó. Phật tính là chất liệu quý báu có sẵn ở trong mỗi chúng ta, nếu chúng ta sống với tâm ý ích kỷ, hẹp hòi, tầm thường, thì Thần khí và Linh khí hay phật tính ở nơi chúng ta sẽ bị khô kiệt và không thể lưu lộ. Vì vậy, Đức Phật dạy: khi một người phát tâm nguyện rộng lớn, thì người đó sẽ có được phước đức vô biên.

Hãy quên mình trong sự cầu nguyện:
Nếu có một người cúng dường Phật một bồng cam và thắp hương lên bàn thờ của Ngài, cầu nguyện như thế này: “Dạ xin Ngài gia hộ cho con học giỏi, lớn lên gặp được ông chồng dễ thương, gặp được bà vợ dễ thương, cho con lớn lên làm ông giám đốc này, ông giâm đốc khác”, cầu nguyện như thế cũng được, nhưng mà phước ít. Lại cũng có một người cúng dường một bồng cam lên Phật và thắp hương lên bàn thờ của Ngài, bằng cách chắp tay lại, theo dõi hơi thở thật sâu, tâm từ từ yên lắng, vị ấy khấn nguyện như sau: Kính lạy Chư Phật mười phương, kính lạy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, con dâng tặng phẩm thanh tịnh này lên Ngài, để con cầu nguyện cho cha mẹ con, anh chị em con hiện tại và nhiều đời cũng như hết thảy pháp giới chúng sanh có nhiều may mắn, có nhiều hạnh phúc và an lạc. Chỉ như thế thôi, là ta thành tựu phước đức rất nhiều. Vì sao? Vì ta ý thức rất rõ là trong cuộc sống, ta không thể tách rời ta ra khỏi cha mẹ ta và muôn loài, nên ta làm gì thì hãy vì sự hạnh phúc của tất cả mà làm, thì việc làm của ta có một ý nghĩa rất lớn và tự nó sẽ thành tựu những phước đức rất lớn. Nhưng, nếu ta làm bất cứ cái gì cũng chỉ vì mình thôi, thì phước đức của ta càng ngày càng teo lại và ta sẽ gặp phải nhiều chuyện bất như ý xẩy ra đối với ta, ta sẽ sống trong cô đơn và sẽ chết ở trong sự sầu muộn. Nên, ta có thể quên mình đi và cầu nguyện cho cha mẹ , cho tổ tiên , thì phước đức của ta tự lớn ra, bởi vì ta cầu cho cha ta, mẹ ta, tổ tiên ta là trong đó có ta rồi, nên ta không cần phải cầu nguyện cho ta nữa. Vì vậy, khi ta thắp hương lên bàn Phật, ta khấn nguyện: “Con dâng hương, hoa, đèn, cam để cúng dường Ngài, là con cầu nguyện cho cha mẹ con, tổ tiên ông bà nội ngoại của con hiện tại, biết tu tập, biết bỏ ác làm lành, biết thương người, cứu vật, sớm phát bồ đề tâm đêm ngày thường sống ở trong đạo giác ngộ“. Ta dâng hương, đèn, hoa, trái cây, bát nước trong lên bàn thờ Phật với tâm thành khẩn và thanh tịnh mà khấn nguyện như vậy thì phước đức của tự thân rất là lớn. Và phước đức của tự thân ta lớn hơn nữa, nếu ta đem tâm thanh tịnh, tâm rộng lớn, tâm có nội dung của tuệ giác để cúng dường chư phật và cầu nguyện cho cha mẹ của ta nhiều đời, cho thân bằng nhiều kiếp và cho cả pháp giới đa sanh phụ mẫu của ta, thì phước đức của ta lớn gấp trăm ngàn lần so với phước đức mà mình chỉ cầu nguyện cho cha mẹ của ta trong đời hiện tại.
Và nếu ta thông minh hơn nữa, thì khi ta dâng những tặng phẩm lên cúng dường chư phật, ta khấn nguyện như sau:
“Kính lạy chư Phật cư Bồ tát các bậc Thánh Hiền khắp mười phương. Con xin dâng tặng phẩm nầy cầu nguyện cho toàn thể loài người biết thương yêu nhau và cùng nhau sống trong hạnh phúc, an lạc”. Ta biết dâng tặng phẩm cúng dường và biết dâng lời cầu nguyện như thế, thì phước báo của ta sẽ lớn hơn nữa. Phước báo của ta là phước báo loài người, cho nên ta đi đâu cũng được loài người trân quý. Ta đâu có phải sống cho riêng ta? Ta sống cho tất cả loài người, cho nên ta đi đâu, ta cũng được loài người trân quý. Người sống với tâm hồn như vậy là người thông minh.
Nhưng, người đại thông minh, thì khi dâng các tặng phẩm cúng dường lên chư Phật, Bồ tát, các bậc Thánh hiền, vị ấy sẽ thở sâu, giữ tâm thanh tịnh, thích ứng với tâm có tuệ giác lớn và khấn nguyện như sau:
“Kính lạy chư Phật, Bồ tát, cùng Thánh hiền khắp cả mười phương, con dâng hương hoa, nước, đèn này lên cúng dường các Ngài và xin cầu nguyện cho pháp giới chúng sanh, tất cả đều được an lạc, đều được hạnh phúc, đều sớm thành tựu Tuệ giác Vô thượng”. Ta cúng dường và cầu nguyện với tâm như vậy, phước đức của ta, nó dàn trải ra cả toàn thể vũ trụ, cho nên ta sống ở đâu và đi đến đâu ta cũng có an lạc và hạnh phúc, bởi vì trong ta không còn có cái riêng tư nữa. Toàn thể vũ trụ đều có mặt trong ta và ta đã hòa nhập trong toàn thể vũ trụ, trong pháp giới chúng sanh.

Đóa hoa tuyệt vời và thơm mãi:
Ta biết tu học là ta rất dễ thương, ta là đóa hoa tuyệt vời. Bởi vì, đóa hoa ấy, là đóa hoa kết tinh Thần khí của cha và Linh khí của mẹ và là hồn sống của trời, hồn sống của đất đang có mặt trong ta, nên sự có mặt của ta trong trời đất là một sự có mặt hết sức mầu nhiệm. Nếu ta không biết tu học, thì cuộc sống của ta hết sức oan uổng và vô nghĩa.

Thưa Đại Chúng,
Sáng nay, quí vị cài hoa hồng tôi thấy cũng vui và quí vị cài hoa trắng tôi thấy cũng vui. Và sáng hôm nay có mấy em Phật tử đem hoa đến cài cho tôi và hỏi tôi rằng, thầy cài hoa hồng hay hoa trắng. Tôi nói: “Hoa hồng cũng được, hoa trắng cũng được” mẹ cũng còn, mà mẹ cũng mất, cha cũng mất mà cha cũng còn, quý vị muốn cài loại hoa nào lên áo tôi cũng được.
Nhìn vào một đóa hoa hồng hay vào một đóa hoa trắng, ta thấy rằng, trong đóa hoa hồng hay trong đóa hoa trắng đó, có cha của mình, có mẹ của mình, không phải một đời mà bảy đời, không phải bảy đời mà vô số đời.
Về phương diện thời gian, ta nhìn sâu vào đóa hoa hồng đó là ta có thể thấy cha và mẹ của ta nhiều đời ở trong đóa hoa ấy.Và trên phương diện không gian, ta nhìn sâu vào một đóa hoa hồng, ta sẽ thấy cha mẹ ta đang có mặt ở nơi đóa hoa hồng ấy, vì là mọi tinh hoa của đất trời nó đang quyện vào nơi đóa hoa hồng hay nơi đóa hoa trắng mà ta đang được cài ấy. Và ta nhìn vào bản thân của ta, ta nhìn thấy cái thần khí trong con người của ta là cha , cái linh khí trong con người của ta là mẹ. Cho nên, ta tu tập chánh niệm, tỉnh giác là ta rất dễ nhận ra cha mẹ của ta và ta có thể tiếp xúc với cha mẹ ta không phải một đời mà rất nhiều đời.
Ta hãy nhìn và tiếp nhận cho được thần khí trong con người của ta, là ta nhận ra cha mẹ của ta. Ta hãy nhìn sâu để tiếp nhận được thần khí trong ta qua từng tế bào, qua từng mạch máu, qua từng buồng tim, qua từng thớ thịt, qua từng lỗ chân lông, là ta sẽ tiếp xúc được với cha mẹ của ta trong từng giây phút của sự sống. Cho nên, khi ta cài một đóa hoa hồng hay một đóa hoa trắng, là ta phải thở sâu và nhìn sâu để tiếp xúc cho được cái Thần khí và cái Linh khí ở nơi một đóa hoa, và ngay nơi đóa hoa đó, ta cũng có thể tiếp xúc được với Thần khí và Linh khí của cha mẹ ta ở trong ta và ở trong đất trời, không phải một đời mà nhiều đời, không phải một kiếp mà rất nhiều kiếp. Nên, dù xác thân mẹ tôi đã mất, nhưng trong bài thơ “Tình hoa trắng”, tôi thấy mẹ tôi vẫn còn, còn một cách tin vui, nguyên vẹn, cùng khắp, tuyệt vời và thiêng liêng.
Áo tôi vàng, em cài lên hoa trắng
Màu trinh nguyên màu mẹ đã qua đời
Tôi không khóc khi áo cài hoa trắng
Vì trong hoa tôi thấy mẹ tôi cười.

Áo tôi vàng em cài tình hoa trắng
Tình trinh nguyên, tình của mẹ ngày xưa.
Tôi không khóc khi áo cài hoa trắng
Vì là hoa ngày trước mẹ tôi yêu.

Áo tôi vàng em cài lên hoa trắng
Giữa mùa trăng hiếu hạnh nhớ về nguồn
Tôi không khóc khi áo cài hoa trắng
Vì mùa trăng, mùa mẹ bước lên ngôi.


Áo tôi vàng em cài lên hoa trắng
Màu trắng thơm màu mẹ đẹp tuyệt vời.
Tôi không khóc khi áo cài hoa trắng
Vì trong hoa tôi thấy mẹ ngàn nơi.

Áo tôi vàng em cài lên hoa trắng
Đóa hoa xưa ngày mẹ xới đất trồng;
Giữa những ngày mưa chang và nắng quái
Giữa biển cồn đời mẹ hóa thành bông.

Đời của mẹ đã hóa thành hoa trắng
Hoa thơm tươi hoa thanh bạch mẹ ơi!
Tình của mẹ là tình bông hoa trắng
Tình thiêng liêng lồng lộng giữa đất trời.

Mỉm cười với mẹ và cha:
Nếu mình có chánh niệm, tỉnh giác, và tuệ giác, thì mình đang mỉm cười với mẹ mình và mình thấy mẹ đang mỉm cười với mình. Mình mỉm cười với mẹ mình là vì mình đang thấy ở mẹ có cái gì thiêng liêng nhất, đẹp nhất mà mình đang tiếp xúc được. Và mẹ mình đang mỉm cười với mình, vì mẹ mình biết mình đang tiếp tục cái thiêng liêng của mẹ, mình đang tiếp tục cái linh khí của mẹ và mẹ đã sinh ra mình là để mình tiếp tục cái linh khí, cái thiêng liêng ấy của mẹ. Cho nên, mẹ vui sướng và cười với mình và mình cũng biết rằng, mình đang tiếp tục cái linh khí thiêng liêng của mẹ và mình cười với mẹ. Lại nữa, mình thấy mẹ luôn luôn có mặt trong mình, và mình luôn luôn có mặt trong mẹ, mình luôn luôn thấy được như vậy là mình hạnh phúc biết bao !
Mẹ chưa một phút giây nào rời khỏi mình và mình chưa một phút giây nào rời
khỏi mẹ. Tại sao mình nói là mình mất mẹ?? Thực ra, mình không bao giờ lă người thật sự mất mẹ. nếu có chăng chỉ là sự thay đổi thể xác... còn cái tinh hoa của mẹ vẫn còn mãi trong ta và còn mãi giữa đất trời.

Áo tôi vàng em cài lên hoa trắng
Màu trắng thơm màu mẹ đẹp tuyệt vời
Tôi không khóc khi áo cài hoa trắng
Vì trong hoa tôi thấy mẹ ngàn nơi.
...
Tình của mẹ là tình bông hoa trắng,
Tình thiêng liêng lồng lộng giữa đất trời.

Mẹ có mặt khắp mọi nơi, mẹ là linh khí của mọi loài, mọi vật. Cha là thần khí của mọi loài, mọi vật. Cho nên, ta nhìn vào mọi loài, mọi vật, ta đều nhìn thấy mẹ ta trong đó, cha ta trong đó và ta cũng hiện hữu ở trong đó.
Vì mình thấy mẹ có mặt khắp cả ngàn nơi, do đó mình làm cái gì, mình nói cái gì, mình nghĩ cái gì cũng nghĩ đến mẹ, vì mẹ của mình đang có mặt khắp cảí ngàn nơi. Và Phật tử là mình phải thông minh, thông minh một cách đặc biệt, nên khi mình tụng kinh, mình lạy Phật, mình ngồi thiền, mình ăn chay, mình bố thí, mình cúng dường, mình cắm bông hoa lên cúng Phật, cúng ông bà, tổ tiên của mình là tất cả mình đều hồi hướng về Phật đạo, để mình có cách nhìn và cách sống của Phật đạo và mình cũng mong cho bất cứ ai cũng đều có cách nhìn và cách sống ấy . Cho nên, mình làm cái gì mình đều nói :

”Nguyện đem công đức này,
hướng về khắp tất cả,
đệ tử và chúng sanh,
đều trọn thành Phật đạo” .

Phải thông minh lắm mình mới nguyện như vậy và mới làm như vậy, nếu không thông minh, thì mình làm cái gì cũng nghĩ về cho mình. Một việc làm có nội dung của sự thông minh là ta đều hồi hướng về cho tất cả mọi người, cho pháp giới chúng sanh, bởi vì tất cả chúng sanh trong pháp giới đều có mẹ mình ở trong đó, đều có cha mình ở trong đó, đều có mình ở trong đó và đều có ông bà tổ tiên của mình ở trong đó, nên ta có làm được điều gì tốt đẹp là ta đều xin hồi hướng về cho tất cả mọi người và cho tất cả chúng sanh, làm với tâm hồn như vậy là ta đang mỉm cười với mẹ và cha của chúng ta.

Tôi vẫn còn:
Tôi còn tu được cho đến ngày nay là nhờ mẹ tôi, nếu mẹ tôi mà vì một chút tình cảm tầm thường như một người nữ nhi khác, thì bây giờ tôi không còn làm thầy tu nữa rồi. Tôi đi tu lúc mười hai tuổi ở chùa Phước Duyên, thầy của tôi đã tìm đủ mọi cách để huấn luyện tôi trở thành một người xuất gia giỏi, nên đã nhiều lần Thầy tôi đã dùng những biện pháp mạnh đối với tôi để buộc tôi phải chăm học. Ở chùa không bao lâu tôi đã thuộc lòng hai thời công phu và bốn cuốn luật bằng chữ Hán. Vào trời mùa đông ở Hu? l?nh lắm, mới hai giờ sáng, Thầy tôi đã thức tôi dậy học kinh luật. Là một chú tiểu rất nhỏ ở chùa, tôi cũng vừa thích tu mà cũng vừa thích ngủ. Lại nữa, tu cũng ưa tu mà chơi cũng ưa, đàng hoàng cũng ưa mà nghịch ngợm cũng ưa, cho nên cái kỳ cục của tuổi trẻ là ở chỗ đó. Ưa thì ưa cho mình đàng hoàng, mà cái hoang nghịch thì mình cũng thích chơi, ưa cho mình thông minh mà cũng nhác học, cho nên Thầy tôi rất khổ công huấn luyện tôi. Có khi Thầy phải dùng những biện pháp mạnh.
Tôi tu được một năm, sau đó là tôi xin Thầy tôi cho tôi đi học phổ thông, vì lúc đó tôi mới học xong tiểu học thôi, tôi nghĩ rằng, nếu mình không tiếp tục học thêm phổ thông, thì đối với văn hóa mình yếu, sau nầy không có cơ hội để phát triển về mặt trí thức. Tôi đã nhiều lần xin Thầy, nhưng Thầy tôi không cho phép, lại còn dạy tôi rằng: “Đi tu thì học việc tu thôi”. Không được Thầy cho phép, tôi buồn Thầy, nên đã tìm cách bỏ chùa, bỏ Thầy để về nhà. Khi tôi về nhà, mẹ tôi thấy tôi, mẹ tôi rất mừng, hỏi han ân cần đủ thứ,û dọn cơm cho tôi ăn, pha nước cho tôi uống, hỏi chuyện nầy, chuyện nọ cả đêm, rồi bỏ mùng cho tôi ngủ, sáng ngày mẹ tôi thức tôi dậy, dọn cơm nước cho tôi ăn xong và bảo tôi lên chùa cả Thầy trông, tôi thưa với mẹ tôi r?ng, con không lên chùa nữa! Mẹ tôi hỏi “Tại sao chú không lên? “, tôi thưa, “Vì con xin Thầy đi học ngoại điển mà Thầy không cho, nên con không có lên nữa. Con nghĩ, tu mà ít văn hóa ngoài, tu không có giỏi, nên con về nhà, con học cho xong Tú tài toàn phần đã, rồi con đi tu cũng được”. Cha tôi bảo: “Thôi, rứa cũng được”, Cha tôi không có ý kiến gì thêm nữa! Khi ấy tôi thấy cha tôi đứng về phía mình, nên tôi rất thương cha. Còn mẹ tôi khi nghe tôi thưa như vậy, liền bặm mặt lại và nói: “Không được, chú phải lên!”. Tôi không chịu lên, bấy giờ mẹ tôi phải cho tôi ăn roi. Mẹ tôi bắt tôi nằm xuống đánh từng roi và nói rằng: “Cái cắc cớ là tại chú, vì răng chú xin ôn mụ tôi đi tu, lên trên chùa là Thầy dạy cho chú tu, chú không chịu tu, lại ưa đi học chuyện bên ngoài, cắc cớ là tại chú chứ đâu phải tại Thầy”, nói với tôi như vậy xong, là mẹ tôi đánh vào tôi một roi, và tiếp tục dạy tôi cứ bảy phút là nhịp một roi, cứ như vậy gần hai tiếng đồng hồ, và lời sau cùng mẹ tôi nói: “Bây giờ mẹ muốn con đi tu và con là con của Thầy, của Phật, chứ không còn là con của ôn mụ tui nữa”. Mẹ tôi nói như vậy với tôi xong, lại liền nói với cha tôi rằng: “Ôn phải đem điệu lên lạy Thầy trên chùa, để xin sám hối cho điệu ???c ti?p t?c tu l?i”, vă th?a v?i Thầy rằng: “Từ nay về sau điệu là con của Thầy, của Phật chứ không phải là con của mình nữa“. Nghe mẹ tôi nói dứt khoát, tôi nghĩ như thế là đã bị tuyệt lộ rồi, rào đường rồi, cho nên tôi phải theo cha tôi để trở lại chùa. Tôi lạy mẹ tôi hai lạy và theo cha tôi lên chùa. Trên đường cùng với cha trở về lại chùa, trong lòng tôi nghĩ mẹ mình quá nghiêm khắc không có hiền và dễ thương như cha mình. Lên lại chùa cha tôi và tôi đều lạy Thầy và xin sám hối những suy nghĩ vụng dại của tôi, Thầy hoan hỷ, xem như không có chuyện gì xẩy ra. Tôi tiếp tục tu học ngày càng khá lên, không hề nghĩ gì đến việc phải đi học ngoại điển nữa. Sau một thời gian, Thầy tôi cho tôi thọ Sa di và cũng cho tôi đi học thêm ngoại điển nữa.
Khi tôi thọ Sa di rồi, Thầy cho về thăm nhà, nghe tôi về, mẹ tôi mặc áo dài ra đón tôi từ cổng và khi tôi làm Thầy mỗi khi về nhà, mẹ tôi lại mặc áo tràng ra cổng đón tôi vào và lạy tôi, mỗi khi mẹ tôi nói gì với tôi cũng : “Bạch thầy - con” chứ không xưng là mẹ.
Có lần mẹ tôi đau, nằm trên giường bệnh, tôi về thăm, tường trong nhà lâu ngày nước nó loang lỗ ra, rêu mọc lên. Mẹ tôi nói:“Thầy ơi! con đau, con niệm Phật, nhưng con niệm Phật cho thầy, con cầu nguyện cho thầy tu tập thành đạt được cái cao quí của Phật, của Tổ mà thầy đã tự nguyện đi theo, cho nên thầy có thấy không, trong những bức vách mà nó mọc rêu, trong bức tường rêu ấy thấy toàn cả tượng Quan Âm thôi à”. Tức là mẹ tôi cứ ngồi như thế mà niệm Phật và mẹ tôi cứ nghĩ là cầu nguyện cho tôi tu tập thành tựu, nên rêu mọc lên, mà mẹ tôi nghĩ là tượng Quan Âm, cho nên tôi biết mẹ tôi rất thương tôi, quí tôi lắm, lúc nào cũng muốn cho tôi tu tập thành đạt, bởi vậy mà việc mẹ tôi cho tôi ăn roi ngày xưa là một sự hy sinh tình cảm nhỏ nhặt để đạt tới một tình cảm rộng lớn, bấy giờ mẹ tôi đã can đảm đánh tôi từng roi, mỗi roi chạm vào thân thể tôi là như mỗi roi chạm vào thân thể mẹ và mẹ tôi đứt từng khúc ruột vậy.
Cho nên, một lần tụng Kinh, ngồi thiền hay làm bất cứ cái gì, tôi cũng nghĩ đến mẹ và tôi biết chắc chắn rằng, mẹ tôi bây giờ ở thế giới nào, thì cũng nhìn tôi mỉm cười và tôi thấy mẹ tôi đang có mặt một cách đích thực trong tôi. Tôi nhớ rất rõ, ngày tôi học ở Sài gòn, mẹ tôi đã rang từng hủ ngũ cốc bảo chị cả của tôi đi Sài gòn đem vào cho tôi, tôi rất là hạnh phúc khi nhận được quà từ mẹ. Tôi muốn mẹ tôi có nhiều phước đức, nên tôi không xử dụng một mình, tôi đem chia sẻ cho những anh em tăng sinh chung quanh của tôi để hồi hướng phước đức cho mẹ tôi. Nên, nghĩ về mẹ là nghĩ về một bông hoa đẹp nhất trên đời, nghĩ về mẹ là nghĩ về một dòng nước mát trong và ngọt ngào nhất. Không có tình thương của mẹ ta không bao giờ lớn khôn, không có sự hy sinh của mẹ là ta không bao giờ trưởng thành. Ngày nay, tôi vẫn còn làm thầy tu, nhân duyên hỗ trợ lớn nhất là mẹ.

Nhẹ như cánh hạc:
Rồi tối hai mươi mốt, tháng tám, năm Giáp tý (năm 1984), tôi được chú tôi báo tin là mẹ tôi đã qua đời tối nay, tôi rất ngạc nhiên, bởi vì chiều ngày hai mươi, tháng tám, năm Giáp tý (1984), cô Như Huy em gái của tôi vào Sài Gòn thăm tôi, tôi hỏi “Mẹ khỏe không, mà em đi đó ?”. Cô trả lời: “Em có về thăm mẹ, mẹ khỏe lắm”. Được tin mẹ mất, tôi vội nhảy xe buyt đi Huế để về nhà lo tang mẹ. Khi về đến nhà, cả nhà thấy tôi ai cũng oà lên khóc, tôi đứng lặng yên bám sát hơi thở chốc lát, sự xúc động qua đi, cha tôi nói: “Thầy về rồi, tôi khỏe, mọi chuyện giao cho thầy hết”. Tôi hỏi vì sao mẹ mất nhanh như vậy? Cha tôi kể: Chiều 21 mẹ tôi đi kỵ ngoài bà Cô của tôi, 4 giờ chiều đang còn sắp dọn, xong 6 giờ về nhà. Vềì đến nhà, hai ông bà lấy ghế tựa ra nằm trước sân, chị Cả gởi cam về hai ông bà ăn xong, khoảng 8 giờ thì sương xuống, bà mới kêu “Ôn ơi! dậy đi vào nhà cả sương, kẻo sáng mai đau chừ”. Ông lên nhà trên, bà xuống nhà dưới, khoảng 9 giờ bà bưng đèn lên nhà, kêu ôn, “Ôn ra vườn hái cho tôi chín ngọn lá trường sanh”, cha tôi ra hái xong, rửa sạch, đem vào đưa cho bà và bà đang ngồi với tư thế kiết già, để nhai, bà đang nhai, cha tôi ra đóng cửa ngõ, khi đang đóng cửa ngõ, cha tôi nghe trong nhà bà niệm Phật ba tiếng thật to, như tiếng niệm Phật trong lúc hô canh ở chùa vậy, cha tôi đóng cửa xong đi vào, thấy bà nằm xuống và đã đi xa, thấy vậy cha tôi khóc, rồi kêu con cháu ở nhà xung quanh đến, các con cháu nói mới nghe bác, thím niệm phật đó mà! Mẹ tôi mất đi một cách giản dị như thế, không có chi đau đớn, rất nhẹ nhàng.
Tôi biết, mẹ tôi rất nhẹ nghiệp, mẹ tôi khi hướng tâm về Phật Pháp rồi, thì một con gà mẹ tôi cũng không nuôi, một cái lợi nhuận nhỏ, mẹ tôi cũng không nghĩ và trong nhà khi nào cũng trữ lương thực khô hết, là vì để khi chư tăng đi hoằng pháp, bất kỳ vị thầy nào về vùng nầy cũng ghé thăm gia đình tôi, dù là 1, 2 giờ khuya, là mẹ tôi cũng có thức ăn để hầu hạ chúng tăng và mẹ tôi hết sức kính trọng chúng tăng. Cho nên, niềm tin của bà đối với Tam bảo là hết sức sâu sắc. Mẹ tôi mồ côi mẹ rất sớm, được ông ngoại tôi chăm sóc hết sức kỹ lưỡng. Ông ngoại tôi không những là một phật tử thuần thành mà còn là một nhà Nho, một thầy thuốc nổi tiếng. Ông ngoại tôi sống thỉ chung với bà ngoại tôi, dù bà ngoại tôi mất sớm, Ông ngoại tôi sinh ra hai cậu và mẹ tôi là con gái út. Cho nên, nghĩ đến mẹ, nghĩ đến cha, nghĩ đến tổ tiên, nội ngoại thì chúng tôi biết ơn rất sâu, vì chúng tôi hôm nay là của cha, của me,û của ông bà nội, ông bà ngoại, của trời đất, của tất cả, vì vậy khi tôi thắp hương, tôi không thắp hương cho cá nhân tôi mà tôi thắp hương với một tấm lòng cho tất cả và hôm nay tôi tu không ph?i lă tôi tu cho mình tôi mă tu v?i một tấm lòng là cho tất cả.
Thưa đại chúng! Hôm nay mùa Vu lan về, chúng ta làm cái gì, chúng ta cũng nghĩ đến ân nghĩa của tất cả, và chúng ta nỗ lực tu tập, thân không làm các điều ác, miệng không nói những lời ác, ý không nghĩ đến những điều ác, để báo đáp ân cha mẹ hiện tiền, cha mẹ quá khứ, và cha mẹ của chúng ta đang có mặt cùng khắp cả pháp giới, ta thực tập được như vậy, thì ta sẽ thành tựu phước đức một cách toàn vẹn.
Bây giờ, trong mùa Vu Lan, chúng ta có bao nhiêu phước đức do công phu tu tập và hiếu hạnh, thì chúng ta cùng nhau chắp tay xin hồi hướng cho tất cả:

Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả.
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.


BỐN PHÉP LẠ CỦA Ý

Pháp thoại T T Thích Thái Hòa giảng cho học chúng chánh niệm tại Thiền đường Trăng rằm, Tổ Đình Từ Hiếu, ngày 24/08/Kỷ Mão (13/10/1999),do đệ tử Nhuận Từ Nguyên và Nhuận Thuần Nguyên phiên tả.

Thưa Đại chúng,
Hôm nay là ngày 24/8/năm kỷ Mão, tức là ngày 13/10/1999, tại Thiền Đường Trăng Rằm, Tổ Đình Từ Hiếu, Huế, tôi xin chia sẻ với Đại chúng bài Pháp Thoại Bốn Phép Lạ của Ý.
Trong Kinh Đức phật dạy, người nào tu tập thành tựu Bốn phép lạ của ý, thì người đó có thể làm chủ được sinh mệnh của mình. Ba tháng trước khi Như Lai diệt độ, ngài A Nan khóc xin Như Lai ở lại, nhưng Ngài đã buông bỏ thọ hành và Ngài đã tuyên bố là Ngài sẽ nhập diệt. Ngài nói rằng, nếu Ngài ở lại thêm nữa thì làm sao Như Lai có tính thuyết phục thiên ma, thuyết phục những hạng thiện nhơn trong đời. Sau đó, Như lai liền dạy Bốn phép lạ của ý:

1/ Dục như ý túc: Ý muốn tu tập pháp cao thượng, thành tựu pháp cao thượng. Tại sao chúng ta bị sinh, bị già, bị bịnh và bị chết? Khi chúng ta đã bị rồi là chúng ta đã hoàn toàn mất tự do, khi chúng ta thấy được điều đó tức là chúng ta muốn tu tập để vượt ra khỏi cái bị sinh, bị già, bị bịnh, bị chết. Cái tâm nguyện muốn tu tập để vượt ra ngoài những cái đó gọi là dục như ý túc. Chúng ta muốn được sống trong tự do, chết trong ý nguyện của chúng ta, chúng ta phải tu hành, phải thực tập chánh niệm. Chúng ta phải tha thiết đoạn trừ những hạt giống ràng buộc ở trong tâm thức, vì chúng làm ta mất tự do. Tâm hệ lụy, lụy về tiền tài, lụy về sắc, lụy vào cái ăn, cái ngủ... khiến cho chúng ta không thể đi đến với chân trời rộng lớn được. Khi bị hệ lụy vào cái gì, thì chúng ta đánh mất chủ quyền về cái đó. Chúng ta cả triệu lần vượt ra, nhưng lại cả triệu lần bị trói lại, vì chúng ta thực tập không thành tựu phép lạ thứ nhất.

2/ Niệm như ý túc: Hay tâm như ý túc tức là chúng ta luôn luôn nhớ ý niệm vượt thoát bị sinh, bị già, bị bệnh, bị chết. Nếu tư tưởng đó khởi lên nhưng chúng ta không duy trì , thì nó sẽ tan. Duy trì ý niệm tu tập, duy trì phương pháp tu tập giúp cho chúng ta vượt thoát sinh tử. Khi chúng ta đi, đứng, ngồi... chúng ta dùng năng lượng chánh niệm làm cho chủng tử hệ lụy, giận hờn lắng xuống. Nhiều khi không có đối tượng trước mắt chúng ta mà chúng ta cũng giận, cái đã đi qua lâu lắm rồi thế mà nhiều khi nghĩ lại chúng ta cũng giận, cái giận đó ở trong tâm thức của chúng ta, nó làm cho chúng ta bị hệ lụy, làm cho chúng ta bị cản trở trong sự tu tập. Vì vậy, khi chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi chúng ta phải làm cho chủng tử tâm hành như giận hờn, ganh tị, thù oán, trách móc lắng xuống. Nó lắng xuống nơi tâm thức của chúng ta, nó sẽ được biểu hiện qua bước đi của chúng ta. Khi bước đi của chúng ta vững chãi, thảnh thơi tức là biểu hiện cho sự vắng lặng những hạt giống bồn chồn, lo âu, sợ hãi, ganh tị trong tâm thức của chúng ta. Chúng ta cứ nghĩ, năng nổ như thế là không bịnh, nhưng thật ra là bệnh, bệnh của lật đật, của sự đánh mất mình. Nhưng nhiều khi đi chậm mà tâm vẫn chạy ra ngoài, vì vậy, chúng ta phải thường xuyên tu tập chánh niệm trong mọi động tác sinh hoạt hàng ngày. Và chúng ta bước được những bước vững chãi, thảnh thơi đó là một phép lạ. Khi thực tập niệm như ý túc hay tâm như ý túc chúng ta luôn luôn nhớ đến lý tưởng tu tập của mình. Tại sao mình tu? Tại sao chúng ta phải lên Từ Hiếu để thực tập và chúng ta đang được thực tập pháp nào? Chúng ta phải nhớ và hành trì cho đến khi thuần thục. Trong bản tiếng Phạn, tâm như ý túc có nghĩa là tâm của chúng ta luôn an trú trong định, an trú trong niệm và an trú trong tuệ, khi đó chúng ta mới có khả năng làm vắng bặt tất cả những chủng tử phiền não trong tâm thức của chúng ta. Chúng ta tu tập là chúng ta đoạn trừ năng lượng dẫn chúng ta đi đến cái bị sanh, bị già, bị bệnh, bị ch?t. Chúng ta tu t?p t?c lă lăm v?ng l?ng và duy trì sự vắng lặng đó liên tục, khi chúng ta làm được điều đó có nghĩa là chúng ta thành tựu được niệm như ý túc. Tuy nhiên, khi chúng ta đang tu tập, chúng ta có thể làm vắng lặng được một lúc, nhưng rồi nó lại trồi lên, chúng ta được ví như những người chiến sĩ, chiến thắng đó rồi thất trận đó, phút trước là anh hùng, thì phút sau là kẻ bại trận thê thảm, phút trước chúng ta rất là dễ thương, nhưng phút sau chúng ta có thể là bị thịt, bởi vì phút trước chúng ta được niệm như ý túc, phút sau tâm của chúng ta đã chạy tán loạn. Cho nên, người tu là một chiến sĩ ứng chiến với cái tâm hành nơi tâm thức của mình ở mọi không gian và mọi thời gian. Những hạt giống xấu nơi tâm thức của chúng ta rất là tào lao, hễ chúng ta có ý thức thì nó trốn, nhưng khi chúng ta lơi đi một tí là nó lại xuất hiện, nó đẩy chúng ta đi ra khỏi pháp môn đang hành trì. Vì vậy, chúng ta phải giữ chánh niệm liên tục, giữ cho được tâm như ý túc, hễ chúng ta đánh rơi là chúng ta mất tất cả. Chúng ta giữ chánh niệm trước sắc trần, thanh trần, vị trần, xúc trần, hương trần rất là khó và khi thoát được cái thô đó thì cũng rất dễ bị mắc kẹt vào ý trần. Ý trần tức là những hình ảnh đẹp, xấu đã đi qua rồi nhưng còn đọng lại n?i tđm thức. Có vậy, nên nhiều khi chúng ta chỉ ngồi một mình thôi mà cũng nổi giận hay nổi thương quay cuồng. Người ta đi xa rồi, nhưng cái giận, cái thương vẫn nổi lên nơi tâm thức của mình. Cái đó ai cũng có, bởi vì, hạt giống đó đã nằm trong tâm thức của chúng ta từ vô thỉ kiếp và khi đủ điều kiện, thì nó sinh khởi mà thôi. Cho nên chúng ta phải thường xuyên duy trì yếu tố thứ ba.

3/ Tinh tấn như ý túc: Khi tất cả những chủng tử tâm hành của chúng ta vắng lặng rồi, chúng ta phải liên tục duy trì nó, cho đến khi các chủng tử thấp kém đó bị tiêu diệt hoàn toàn không sinh khởi trở lại nữa. Giây nào, phút nào, giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào, đời nào chúng ta cũng thực tập tinh chuyên như vậy, thì những chủng tử đã đẩy chúng ta tới bị sinh, bị già, bị bệnh, bị chết sẽ hoàn toàn vắng lặng, khi đó chúng ta bắt đầu có tự do, có chủ quyền. Tấn như ý túc là chúng ta luôn luôn đi tới mà không đi lui. Trước đây, chúng ta chỉ tu một ngày trong cả tháng, thì giờ đây chúng ta tu hai ngày, ba ngày,... cho đến khi chúng ta tu cả tháng, cả năm, cả đời, cả kiếp, chẳng thà đi tới chậm, chứ không phải mới đầu thì tu hăng lắm, nhưng sau thì chậm dần rồi tắt. Chỉ có tu mới chống được tai họa, chống được cái khổ, nếu không tu, thì tai họa ập tới, cái khổ cứ chồng chất đeo mãi mà thôi. Nên tinh tấn cũng là một phép lạ - sao các chị đó bữa nay mà hay, mình cũng thích tụng kinh, thích thực tập chánh niệm, thích làm việc thiện, nhưng rồi cái ưa thì vẫn để đó còn ngủ thì cứ ngủ, linh tinh vẫn cứ linh tinh. Người ta hay nghĩ, phép lạ là phải bay lên trời, thế thì ruồi, muỗi cũng bay được. Nên, phép lạ là ngày nào cũng ăn cơm trong chánh niệm, ngày nào cũng đi thiền hành, ngày nào cũng lạy Phật, ngày nào cũng chia sẻ niềm vui đến mọi người, ngày nào cũng có thể ngồi nghe mọi người than thở, đó thực sự mới là phép lạ, phép lạ của tâm như ý túc. Chúng ta ngồi nghe mà tâm không phán xét, không phản ứng, nghe để hiểu gốc rễ của vấn đề, chúng ta nghe được như thế là một phép lạ. Nếu không có thực tập hạnh lắng nghe, chúng ta nghe người ta than vãn là chúng ta không có chịu nổi, càng nghe chúng ta càng phiền muộn. Chúng ta thắp hương cúng Phật mỗi ngày, sáng thắp như thế, chiều thắp như thế, tối ta cũng thắp như thế, sáng, chiều và tối, lúc nào ta cũng lạy Phật ba lạy tha thiết, chúng ta làm riết như thế, ngày nào cũng nỗ lực đều đặn, chúng ta sẽ thành tựu được tấn như ý túc. Nhiều khi chúng ta không lạy được mà chỉ vái ba vái thôi, như vậy là ta không thành tựu tấn như ý túc. Vì vậy, chúng ta phải luôn nhớ pháp hành của chúng ta, khi chúng ta hành trì thường xuyên, thì các chủng tử tâm hành của chúng ta sẽ vắng lặng. Chứ chúng ta mới đè một tí mà đã buông ra, thì nó trồi dậy càng mạnh hơn. Nhiều người than, trước đây chưa tu thì mọi chuyện êm thắm, nay tu rồi mà sao nhiều chuyện quá, cũng giống như lò xo, để yên thì thôi, chứ đè vào rồi thả ra, thì nó sẽ bung ra dữ lắm. Chủng tử xấu nơi tâm thức chúng ta cũng vậy, để yên thì nó ít hung hãn, nhưng khi chúng ta chọt mà chơi, thì nó hung hãn gắt, nhiều người càng tu càng sinh bệnh, cái tâm trở nên dữ dội, nóng bức. Vì vậy, chúng ta phải thật sự nỗ lực thường xuyên, gọi là tấn như ý túc.

4/ Tư như ý túc: Tư như ý túc còn gọi là Tư duy thần túc, Quán thần túc, Tuệ như ý túc. Tư như ý túc hay Tư duy thần túc, nghĩa là do năng lực tư duy đối với chân lý do Đức Phật giảng dạy mà sinh khởi thần túc đúng như ý, hay do an trú ở trong thiền định mà quán chiếu, thấy rõ mọi nhân duyên vận hành và hiện khởi của những chủng tử tâm thức, mà thành tựu thần túc như ý, nên gọi là tuệ như ý túc. Hoặc bằng vào thiền định mà nhiếp phục các chủng tử tâm hành, khiến cho các chủng tử tâm hành hoàn toàn an tịnh mà thành tựu thần túc, nên gọi là định như ý túc.
Định như ý túc là thành tựu phép lạ của ý do sự tư duy từ thiền định đem lại. Sự tư duy từ thiền định là gì? Đó là đặt tâm vào một đối tượng duy nhất, vào một đề mục duy nhất để tâm ý có sự định tĩnh từng phần và toàn phần. Ta thiền tập mỗi ngày để tâm ta lúc nào và ở đâu cũng thuần thục ở trong định và khiến ta có khả năng nhập định và xuất định một cách như ý. Ta thực tập Tư như ý túc thuần thục, khiến ta khi trực diện với mọi hoàn cảnh thuận nghịch, thăng trầm, khen chê, tụ tán, sống chết mà tâm ta an nhiên, hoàn toàn không bị dao động thì đó chính lă m?t phĩp l? c?a tđm ý. Phĩp l? ?y ta có thể thành tựu qua sự thực tập thiền quán mỗi ngày. Mỗi ngày ta đi, hành động đi của ta phải được thiết lập hoàn toàn trên nền tảng tư duy của tuệ giác; mỗi ngày ta đứng, hành động đứng của ta cũng phải được thiết lập hoàn toàn trên nền tảng tư duy của tuệ giác; và sự nằm, ngồi, nói, cười, ăn, uống, tiếp xúc, làm việc của chúng ta cũng vậy, cũng phải hoàn toàn thiết lập trên nền tảng tư duy của tuệ giác. Tư duy của tuệ giác là sự tư duy không mang chất liệu của ngã tính. Tư duy của tuệ giác là sự tư duy hoàn toàn không liên hệ đến các phiền não bẩm sinh và phân biệt do học tập hay do hoàn cảnh tôn giáo hoặc xã hội tác thành. Tư duy của tuệ giác là sự tư duy đúng như tự thân của mọi hiện hữu. Mọi sự vật hiện hữu như thế nào, thì ta phải chiêm nghiệm để thấy và biết nó đang hiện hữu đúng như thế ấy, đó gọi là tư duy của tuệ giác.
Tư duy như thế là một phép lạ, giúp ta vượt thoát mọi vô minh, phiền não, vượt thoát mọi khổ đau sinh tử, chứng Niết bàn và an lạc ngay trong cuộc sống nầy.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRỞ THÀNH
NGƯỜI HỌC TRÒ THÔNG MINH VÀ HỌC GIỎI

Bài pháp thoại, T.T Thích Thái Hòa nói cho "Đoàn Thiện Tài Đồng Tử" ngày 29/06/2000, tại thiền đường Trăng Rằm - Tổ đình Từ Hiếu- Huế.

Hôm này là ngày 29/06/ 2000 tức là ngày 28/05/ Canh Thìn, ngày thực tập chánh niệm lần thứ hai cho Đoàn Thiện Tài Đồng Tử. Thầy sẽ nói cho các con bài pháp thoại "Làm thế nào để trở thành một người thông minh và học giỏi."
Chúng ta ai ai cũng muốn mình trở thành một người thông minh và học giỏi cả. Nhưng làm thế nào để đạt đến kết quả đó?
Chúng ta phải hội đủ năm điều kiện như sau:

1. Chăm nghe:
Nếu nghe ở đâu có một vị thông minh, tài giỏi thì Thiện Tài Đồng Tử tìm đến tham cầu học hỏi và chăm nghe. "Chăm nghe" tức là chăm chú lắng nghe. Nếu mình không học hỏi và chăm chú lắng nghe thì không thể nào thông minh và học giỏi được.

2. Ghi nhớ:
Nếu chăm nghe mà không ghi nhớ thì không thể nào trở thành một người thông minh và học giỏi. Cho nên, chúng ta phải bước tới yếu tố thứ hai là ghi nhớ. Những điều gì chúng ta học được, nghe được, chúng ta đều ghi nhớ trong lòng, khắc sâu tâm trí.

3. Suy nghĩ:
Sau khi chúng ta ghi nhớ rồi, thì chúng ta phải suy nghĩ, những điều gì mình được nghe, được học và ghi nhớ. Hàng ngày chúng ta làm gì cũng phải ghi nhớ, trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, rửa bát, bồng em, giặt áo quần… Chúng ta đều suy nghĩ những gì mình đã được học và đã nghe được.

4. Gạn lọc:
Sau khi ghi nhớ và suy nghĩ rồi, chúng ta thấy: điều này là hay, điều này là chưa hay, điều này là phù hợp với mình, điều này là chưa phù hợp với mình. Khi hiểu rõ rồi thì chúng ta phải gạn lọc để giữ lại những điều hay, những điều phù hợp với mình. Yếu tố suy nghĩ và gạn lọc tạo cho mình trở thành một con người thông minh, một người học giỏi. Nếu chúng ta chăm nghe mà không suy nghĩ và không gạn lọc thì mình chỉ là con vẹt.

5. Ứng dụng:
Những gì mà mình đã học tập được, đã lắng nghe được, đã ghi nhớ được, đã suy nghĩ được và đã gạn lọc là để ứng dụng vào trong đời sống hàng ngày như: đi, đứng, nằm, ngồi và khi tiếp xúc với mọi người, mình đều ứng dụng các tinh hoa đó. Chúng ta thực hiện những điều hay, điều đẹp, điều đem đến lợi ích cho mình cũng như cho mọi người. Và mình sẽ trở thành những đóa hoa đẹp như: "Nắng Hồng", "Trúc Biếc", "Gió Xuân", "Suối Từ", "Biển Xanh."
Như vậy các con thực tập theo năm điều đó thì Thầy tin chắc rằng, các con sẽ trở thành một con người thông minh và học giỏi. Các con không những làm vừa lòng ông bà, cha mẹ, bạn bè,… mà các con sẽ là một đóa hoa đẹp đối với gia đình và bạn bè. Và các con sẽ có một tương lai hết sức trong sáng. Thầy rất tin tưởng như vậy.

Từ Hải lược ghi

NHỮNG ĐÓA HOA TUYỆT VỜI

Thượng tọa Thích Thái Hòa giảng cho Đoàn Thiện Tài Đồng Tử trong buổi khai mạc và hình thành gồm hơn 150 em thanh thiếu niên tham dự thực tập chánh niệm ở thiền đường Trăng Rằm tại Tổ đình Từ Hiếu - Huế.

Các con yêu quý!
Hôm nay là ngày 21/06/ Canh Thìn, tại thiền đường Trăng Rằm các con hội tụ về đây vui ca hát dưới mái chùa Tổ. Nguồn mạch tiếp nối trao truyền nhiều đời có từ nơi ông bà, cha mẹ các con, qua nhân duyên phước đức mà các con đã gặp được, các con là những đóa hoa tuyệt vời giữa tình yêu hạnh phúc và ước mơ của cha mẹ. Cho nên hôm nay các con có mặt nơi cuộc đời theo nghiệp lực và nhân duyên tạo tác đã sinh thành một con người có đầy đủ phước báu và bình an. Sự hiện hữu của các con là đóa hoa tuyệt vời nhất giữa thế gian. Bởi vậy muốn nuôi dưỡng và chăm sóc đóa hoa tuyệt vời của chính mình thì các con phải thực tập chánh niệm nhằm duy trì và phát triển cái đẹp cao quý trong các con mà ông bà nội ngoại, cha mẹ, chú bác, cô dì hằng mơ ước. Muốn mình trở thành một đóa hoa tuyệt vời hơn bất cứ đóa hoa nào nơi cuộc đời này thì phải thực tập sáu chất liệu mà Thầy sắp chia sẻ đến với các con hôm nay.

1. Hiếu nghĩa:
Các con là đóa hoa sinh ra từ ba mẹ, là niềm mong mỏi và ước mơ của nội ngoại. Nếu mình không biết hiếu nghĩa với ông bà nội ngoại, cha mẹ thì tự mình đánh mất niềm tin yêu, mình không xứng đáng là đóa hoa tuyệt diệu làm đẹp cho gia đình, cho cuộc sống mà mình đang nương nhờ để khôn lớn.

2. Kính trọng:
Giữa đời này, các con phải kính trọng và vâng lời đối với cha mẹ, ông bà nội ngoại và cao hơn nữa là mình phải biết kính trọng Phật. Bởi vì đức Phật là nơi quy ngưỡng của ông bà nội ngoại, cha mẹ, chú bác, cô dì, là nơi nương tựa đời sống tinh thần để bình ổn thân tâm mà tạo ra vật chất nuôi dưỡng chúng con. Ba mẹ nương nhờ Đức và Trí của ông bà nội ngoại mà sinh ra, do đó các con phải vâng lời dạy bảo và kính trọng cha mẹ. Hai chất liệu Đức và Trí các con phải nuôi dưỡng, thực hành từ tự thân các con sẽ tạo ra một đóa hoa tuyệt vời cho hiện tại và đóa hoa nhân phẩm cho tương lai.

3. Hiểu biết:
Các con phải cố gắng trau dồi, nỗ lực học tập để hiểu biết rõ ràng, rành mạch và tri ân những ân nghĩa chung quanh của mọi loài, trân quý những gì đang nuôi sống chúng ta. Mình ăn bát cơm mình phải biết bát cơm đó có từ đâu? Chiếc áo này ai cho mình mặc đây? Sách vở bút viết ai mua cho mình đến trường học tập? Ai hướng dẫn cho mình hiểu biết, nắn nót lắp ghép từng vần chữ, giải thích từng câu ngữ vận, châm ngôn, ai đang hướng d?n cho mình hiểu về truyền thống, đạo lý nuôi dưỡng tinh thần để mình kính trọng và tưởng nhớ tổ tiên.

4. Thương yêu:
Mình biết mình sinh ra từ cha mẹ và cha mẹ cho các con đến trường ăn học, áo cơm có từ công lao tảo tần sớm hôm của cha mẹ. Ngoại thể và nội tạng của các con là một quá trình đùm bọc cưu mang của cha mẹ, cho nên phải thương yêu cha mẹ. Các con tự thực tập; mỗi lần đi học về hãy đến ôm hôn cha mẹ và nói là: "Ba ơi, mẹ ơi! Con có được ngày hôm nay đi đến trường học tập là nhờ có cha mẹ". Hãy nắm tay anh chị và bạn bè và nói rằng: "Sự có mặt của chúng ta hôm nay là nhờ có cha mẹ tạo ra". Các con sẽ thấy niềm vui trỗi dậy nơi cha mẹ, anh chị và lúc đó cha mẹ và anh chị sung sướng biết chừng nào. Như vậy mình là đóa hoa tuyệt vời vì mình đã có sự hiểu biết và thương yêu.

5. Biết tiếp nhận:
Các con là những đóa hoa tuyệt vời khi các con biết lắng nghe, nhận lỗi lầm của mình đã sai phạm mà không che giấu, chối cãi. Biết ngồi yên để tiếp nhận lời phê bình của thầy cô giáo, của những người thân trong gia đình và những người lớn tuổi đang sống chung quanh để khắc phục, sửa chữa mà trong lòng không bực bội, giận hờn, để sớm trở thành những đóa hoa dễ thương, dễ mến. Khi đã là một đóa hoa dễ thương, nếu có ai đó đem cho tiền bạc, bánh kẹo và những thứ quý báu khác, thì mình phải biết cách tiếp nhận trân trọng bằng hai tay, cúi đầu kính cẩn cám ơn ân nhân, đó là các con đã thực hành được cách tiếp nhận làm cho cha mẹ vui lòng.

6. Biết chia sẻ:
Các con là những đóa hoa tuyệt vời khi biết chia sẻ tình thương yêu có từ ông bà nội ngoại, chú bác, cô dì đến với bạn bè chung quanh. Bởi vì bạn bè có những người mất hết tình yêu thương. Khi sinh thành không biết mặt mũi cha mẹ, ông bà nội ngoại mình là ai; lớn lên không có được sự giáo dục, chăm sóc và che chở. Khi tình yêu thương huyết thống không còn thì bạn bè bị hụt hẫng, bơ vơ, do đó phải biết mỉm cười khi nghe nói những lời nặng nề, thô lổ, những hành động thô bạo có nơi bạn mình. Các con phải chia sẻ nỗi bất hạnh trong niềm thông cảm tha thứ và giúp đỡ lẫn nhau. Đó là chất liệu của đóa hoa tuyệt vời mọc lên từ mảnh đất chánh niệm của Phật- Pháp- Tăng. Và ước mơ của cha mẹ, ông bà nội ngoại đã được thỏa thích và hạnh phúc, khi thấy con mình có được chất liệu hiếu nghĩa, kính trọng và hiểu biết, biết tiếp nhận và biết chia sẻ.
Đó là bài pháp thoại ngắn gọn, đơn giản và nhẹ nhàng trong buổi đầu các con đến chùa. Thầy mong các con hãy thực tập thường xuyên cho đóa hoa tuyệt vời nơi bản thân mình tự nở ra để dâng tặng cúng dường Phật, ông bà, cha mẹ và những người thân yêu của các con.

Quảng Ân ghi


NGƯỜI VỀ TỪ ĐỈNH NÚI

Bài pháp thoại của T.T Thích Thái Hòa giảng cho các Tăng-ni và Phật tử tham dự khóa tu truyền thống sau khóa tu theo tinh thần Làng Mai tại Tổ đình Từ Hiếu - Huế ngày 23/3/ 2002, vì thấy có lợi ích cho tất cả chúng ta cho nên chúng tôi phiên tả ra đây để cùng chia sẻ với quý độc giả.

Phong thái và tâm hồn của một người leo núi khác xa với phong thái và tâm hồn của người dân bình thường. Phong thái và tâm hồn của người ở trên đỉnh núi khác xa với phong thái, tâm hồn của người đang leo núi. Phong thái và tâm hồn của người từ trên đỉnh núi đi về khác rất xa với người đang kẹt vào núi. Phong thái và tâm hồn của người không leo núi đó là phong thái và tâm hồn của những người không đặt định hướng cho mình để đi; lý tưởng để sống. Họ bị "cuốn theo chiều gió". Họ chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi tại sao ta có mặt nơi thế giới này và có mặt để làm gì? Do họ không đặt ra những câu hỏi, vì vậy họ bị "cuốn theo chiều gió", không đặt cho mình một hướng đi, một nẻo tới. Cho nên, họ sống một cách thụ động theo bản năng. Vì họ sống như vậy, nên khi niềm vui đến với họ, họ cười một cách thỏa thích và khi niềm đau đến họ khóc một cách tội nghiệp. Họ là con người, nhưng chẳng khác nào rau khoai, rau muống. Họ chỉ bò thôi, chứ không đứng vững được. Rõ ràng nhất, sau khi nghe pháp thoại do Thượng tọa Tuệ Sĩ nói xong, tôi đi ra trước chánh điện, thấy có nhiều thanh niên, thanh nữ họ quỳ trước Phật với phong thái run rẩy van xin. Tôi thấy như vậy, tôi biết họ chưa một lần leo núi. Và họ có thể van xin bất cứ nơi nào. Họ không có lối sống, mất hướng. Hạng người đó so với người leo núi thì người leo núi vượt rất xa.
Leo núi có nghĩa là vứt bỏ đời sống tầm thường của thế tục để đi lên. Người leo núi là người xuất gia và tại gia. Khi quy y Tam Bảo thì ta đã trở thành người leo núi rồi.
Chúng ta không muốn trôi theo dòng chảy mà chúng ta muốn đưa dòng chảy thế tục vào dòng chảy bậc Thánh.
Phong thái và tâm hồn của người leo núi như thế nào? Người đó phải bám sát mục tiêu c?a mình. Nếu không sẽ rơi vào rừng tà kiến. Và phải có dụng cụ leo núi, nếu không thì ta sẽ rơi xuống núi và mất mạng liền.
Dụng cụ leo núi của người xuất gia và người tại gia là Giới, là Định, là Tuệ. Nếu không có Giới ta sẽ rơi vào rừng tà kiến, nếu không có Định ta sẽ rơi vào rừng tà tư duy và rừng tà của các thứ thiền định thế gian đem lại. Không có Tuệ thì ta sẽ rơi vào rừng tà kiến luận điểm một chiều. Chúng ta leo núi thì không dại gì mà leo một mình mà nên cùng nhau leo núi. Và khi cùng nhau leo núi như thế thì người mạnh giúp người yếu, người lành giúp người thương tích. Cho nên phải leo núi bằng đại chúng. Và điều này Sư ông Làng Mai dạy chúng ta Leo Đồi Thế Kỷ. Có những thầy, cô, chú không chịu cùng nhau leo núi mà thích leo một mình và cuối cùng bị chập trán. Tình trạng ấy ở Việt Nam rất nhiều; ở thất riêng là hình thức leo núi một mình và sẽ thất bại trên con đường leo núi. Nhiều cư sĩ cũng vậy không chịu cùng nhau tu tập.
Nhưng khi leo núi hành giả chỉ thấy trước mắt mình là con đường có nhiều dây leo chằng chịt. Đôi lúc không có đường thì mình phải mở đường mà đi. Khi leo núi mà mình lơ đãng thì dễ bị rơi xuống hố. Do đó phải nhất tâm trong sự nghiệp leo núi của mình. Người leo núi không cần nhìn qua hai bên mà chỉ nhìn con đường trước mắt. Không cần thắc mắc sau núi có những gì. Khi leo núi mà phóng tâm thì sẽ bị giảm sức leo núi của ta.
Khi leo núi ta phải biết duy trì chánh niệm. Có thể tiếng chim là người bạn của ta, chiếc lá vàng rơi là người bạn của ta. Những cái đó đánh thức ta trở về và ta leo núi. Với phong thái và tâm hồn như vậy, nên việc đứng trên đỉnh là chuyện có thể thực hiện được.
Cũng vậy, một vị tu tập vững chãi về Giới và Định thì đạt Niết Bàn ngay trong hiện tại. Niết Bàn không phải là mơ ước mà là hiện thực trong từng bước chân đi của ta.
Phong thái và tâm hồn của người đứng trên đỉnh núi khác xa với phong thái và tâm hồn của người đang leo núi. Phong thái của người đứng trên đỉnh là vững chãi và thảnh thơi, tâm hồn bát ngát bao la. Bởi vì đứng trên đỉnh thì vị ấy đưa mắt nhìn bốn phía và nhìn lên bầu trời bao la, vị ấy khám phá ra sự thật. Ngoài thế giới bình thường ra còn có các thế giới vô biên khác. Vị ấy khám phá thấy hạnh phúc của mình lớn hơn những người đang leo núi. Khi một người đang đứng trên đỉnh thì không bị trở ngại bởi những sợi dây chằng chịt của núi. Ở đây A La Hán đứng trên đỉnh núi của sinh tử. Vị đó sống đời sống thảnh thơi không bị hệ lụy của trần thế. An lạc và hạnh phúc không do ai hiến tặng cho vị ấy mà do chính vị ấy thành tựu được từ việc leo núi. Vị ấy nghĩ rằng, người ấy cần giúp cho mọi người giải thoát, cho mọi người cái nhìn phóng khoáng như chính mình. Vị ấy nghĩ rằng, tại sao mọi người cứ sống trong thế giới mờ mịt như vậy?
Cho nên Không Lộ thiền sư đã phải thét lên:

"Hữu thời trực thướng cô phong ?ảnh
Nhất khiếu trường thanh hàn thái hư
Nghĩa là:
Đúng thời vượt hẳn lên đỉnh núi
Hét dài một tiếng lạnh hư vô

Và rồi để leo núi vì thảnh thơi một mình thì chẳng ích gì. Sau khi thấy được sự sống vô biên, trời xanh bao la thì vị ấy hạ sơn. Vị ấy phải hạ sơn để giúp những người đang leo núi và những người chưa leo núi, khởi tâm leo núi. Giới thiệu với mọi người biết trên đỉnh núi có nhiều châu báu lắm. Do đó những vị giáo thọ đích thực thì tâm của họ khác xa với những người đang và chưa tu học. Cho nên phong thái và tâm hồn của vị giáo thọ phải là những người từ trên đỉnh núi đi về. Người từ đỉnh núi đi về mang chất liệu Đại Bi và Đại Trí. Vị ấy hướng dẫn tu tập tùy theo căn cơ mà không phải là một pháp môn nhất định. Vì có những người leo núi từ phía Tây, khi mặt trời về chiều họ bị nóng sau lưng, là vị giáo thọ thì phải biết mà giúp họ. Cho nên vị giáo thọ phải lấy dù để che sau lưng cho họ.
Có người leo núi từ phía Đông vào buổi sáng thì bị ánh sáng rọi vào người leo núi, là người giáo thọ thì phải biết mà giúp họ.
Có người leo núi từ phía Bắc, là người giáo thọ thì ta phải biết gió Đông Bắc lạnh như thế nào để giúp và che chở.
Có người leo núi từ phía Nam, họ bị ngọn gió Lào, gió Thái xoáy vào rất nóng, là vị giáo thọ thì phải biết để giúp họ đi trọn con đường để đạt đến đỉnh cao. Vị đó sẽ không kỳ thị Đông- Tây- Nam- Bắc. Như khi sáng Thượng tọa Tuệ Sĩ nói: "chúng tôi không thấy rõ quý vị nhưng nhìn quý vị dưới khía cạnh khác, như khi nhìn qua bức tường, quý vị thấy hai cái sừng thì quý vị quyết chắc đó là con trâu mà không cần biết là trâu đen hay trâu bạc". Nếu thấy trâu đen hay trâu bạc thì ngã sở khởi rồi và như vậy thì mình thất bại.
Vị ấy từ đỉnh núi trở về thấy mọi người đều như nhau, đều cần sự giúp đỡ không phân biệt.
Người leo núi từ Tây thì họ tư duy, hấp thụ văn minh khí tiết của phương Tây, là vị giáo thọ thì phải biết điều ấy. Khi nói đến điều này ta khám phá ra điều thú vị ở trong kinh A Di Đà mà mình thường tụng hàng ngày "chư Phật đồng đưa tướng lưỡi rộng dài mà ca ngợi”. Điều đó thấy rằng chư Phật giáo hóa chúng sanh với tâm bình đẳng. Tâm này phải từ đỉnh núi mà đi về. Vị đó rất khỏe, cần cười thì cười, cần khóc thì khóc chứ không ngần ngại. Vì cười mà có thể giúp cho mọi người tới được trên đỉnh núi vững chãi thì cười…
Đôi lúc khổ mà giả vờ cười, đó là mắc kẹt cười, nếu cần khóc để gợi dậy tình người nơi người có trái tim lạnh giá thì khóc. Khóc là một bài thuyết pháp. Nói cười, im lặng tuỳ phương mà cởi mở. Vị từ đỉnh núi về đồng bằng phố thị giúp cho mọi người leo núi vị đó có vô số phương pháp trị liệu. Có nhiều Phật tử nói với tôi rằng, quý Thầy tu mà hát nhạc, Phật cấm mà quý Thầy hát!!!
Tôi trả lời nếu hát mà thay đổi cuộc đời từ u mê thành an lạc thì Phật không cấm.
Do đó, phong thái của người từ đỉnh núi đi về rất là bình thản, sâu lắng, trầm tĩnh. Vì họ đã chứng nghiệm mục tiêu của con đường. Họ đã thấy vô số phương pháp để đạt được mục tiêu. Do đó những gì xảy ra, họ đều nhìn một cách trầm tĩnh. Chư Tổ của chúng ta là những vị từ đỉnh cao mà đi về. Người ta có thể bảo rằng Ngài Ca Diếp là sơ Tổ Thiền tông. Đó là cái nhìn của người có căn cơ thiền leo núi. Có người cho rằng, Tổ Ca Diếp là sơ Tổ của Giáo tông. Đó là cái nhìn của người có căn cơ giáo học. Và có người bảo rằng Ngài Ca Diếp là sơ Tổ hạnh đầu đà… những áp đặt ấy của người leo núi từ phía này hoặc phía kia thì Ngài Ca Diếp chỉ mỉm cười thôi.
Nụ cười của Ngài cũng có thể là cái đó mà cũng có thể là không phải cái đó. Do đó các Tổ sư từ trên đỉnh núi khi về đều mang hai chất liệu Đại Bi và Đại Trí.
Người mắc kẹt phía Tây cho núi phía Tây là nhất. Người mắc kẹt phía Nam cho núi phía Nam là nhất. Người mắc kẹt phía Đông cho núi phía Đông là nhất. Người mắc kẹt phía Bắc cho núi phía Bắc là nhất. Do đó tạo ra những cuộc hý luận vô bổ. Con dao bén, nếu ở nơi tay của Tổ sư thì diệu dụng, tạo ra rất nhiều thức ăn để trị liệu chúng sanh. Nếu ở vào tay người đồ tể thì tạo ra những nhát dao cắt đứt sinh mệnh của chúng sanh.
Khi sáng Thượng tọa Tuệ Sĩ cũng nói: "Thiền không chỉ có ngồi. Có đôi khi người ngồi thiền mà khoe mình ngồi đến tám tiếng hoặc mười tiếng đồng hồ. Ngồi lâu có thể thành cóc chưa chắc đã thành Tổ thành Phật đâu. Cho nên thiền chưa hẳn là ngồi, lặt rau, ăn quýt cũng có thể thực tập thiền”.
Có vị nói: "nhất cử nhất động, vô phi thị thiền" lời tuyên bố như thế nó rất đúng với kinh.
Kinh Tứ Niệm Xứ có nói: "khi tôi duỗi tay tôi biết tôi đang duỗi tay…"
Thiền mà Phật dạy rất là sinh động mà Tổ vận dụng giúp chúng ta. Có người nói, tu thiền đâu cần phải tụng kinh. Thiền là ở nơi sự im lặng chăng? Thế là người câm là Thiền sư cả sao? Không nghe thị phi bên ngoài là Thiền chăng? Nhắm mắt lại là Thiền chăng? Ta có thể sử dụng bất cứ phương pháp nào mà phương pháp đó, giúp cho tâm hành lắng xuống thì ta có thể sử dụng được cả. Và thực tập như vậy là Thiền của Như Lai, Thiền của Tổ sư.
Thiền như vậy là Thiền của người từ đỉnh núi về. Có những người đang leo núi đả kích việc tụng kinh khuya. Tôi nghĩ, Tổ từ đỉnh núi trở về, do đó đã thi thiết vận dụng ra giúp chúng ta. Pháp là pháp thôi. Điều chủ yếu là đạt đến đích. Công phu khuya nếu nhìn cho sâu, thì ta thấy đạo lý mầu nhiệm ở trong đó. Chúng ta phải biết để thực tập, còn nếu thực tập như nghĩa vụ thì việc tụng kinh như vậy là vô ích.
Bài tựa chú Lăng Nghiêm chúng ta phải tụng với Từ bi âm thì trái tim ta sẽ mở ra từ hữu hạn đến vô cùng. Khi ấy sự giận hờn, ích kỷ trong ta được chuyển hóa. Khi đã chuyển hóa rồi thì tâm ta rất an ổn, rộng lớn.
Âm điệu thứ hai là Hải triều âm, khi ta tụng chú, thì âm hưởng của nó rì rào như sóng vỗ. Khi tụng như vậy ta có cảm giác không cô đơn. Những cảm giác mắc kẹt được mở ra. Quý vị phải tụng kinh đi mới thấy, nếu không, đừng có nói, vì nói là sai.
Âm điệu thứ ba là Sư tử âm, nó giống như tiếng rống của sư tử. Khi tụng điệu Sư tử âm thì có khả năng làm cho những hạt giống hèn yếu, sợ hãi… ở nơi tâm ta lắng xuống. Khi phiền não lắng xuống thì chúng ta đi vững chãi như Sư tử chúa, voi chúa mà không phải là như chim sẻ, như thỏ, như nai…
Âm thanh cuối là Giải thoát âm tức là âm thanh niệm Phật. Niệm với tâm hồn không hệ lụy vướng mắc, âm thanh giải thoát tụng lên thì con người có chủ quyền, có tự do. Tôi chưa nói đến triết lý ở trong truyền thống, mà chỉ nói đến cách thức tụng mà thôi, thì đã thấy nó sâu sắc lắm rồi. Nếu quý vị là ca sĩ thì quý vị sẽ nhận ra công phu khuya là một bản nhạc có nhiều âm hưởng, tông điệu khác nhau.
Tu thì phải tu cho đến nơi đến chốn để giúp cho mọi người. Cho nên, Thiền sư có thể là một chính trị gia, một nghệ sĩ đa tình. Đa tình thì không có tình nào mà mắc kẹt cả.
Thiền mà sợ ôm thì sao gọi là Thiền?
Ôm là một hành động có thật trong sự sinh hoạt của con người. Thiền phải có mặt trong hành động ôm của con người, để giúp cho con người ấy vượt ra khỏi những hệ lụy. Để giúp cho hành động ấy trở nên gần gũi mà thánh thiện.
Và ôm là một hành động xảy ra rất phổ biến của người Tây phương, ta phải giúp họ không nên ôm với tâm ý thấp kém, mà hãy ôm với tâm ý thánh thiện.
Bởi vậy, phong thái và tâm hồn của một người về từ đỉnh núi rất khác xa với những người bị mắc kẹt lại trên đỉnh núi và lại càng khác rất xa đối với người đang leo núi.
Từ Niệm kính ghi

KHÉO SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN

Pháp Thoại T.T Thích Thái Hòa giảng vào ngày 29, tháng giêng, năm Quý Mùi, tức ngày 01/ 03/ 2003 cho Đạo Tràng tu học Chánh Niệm tại Chùa Thuyền Lâm Huế, do đệ tử Nhuận Hạnh Châu và Mãn Toàn kính phiên tả.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Thưa đại chúng,
Chúng ta có rất nhiều điều kiện, rất nhiều yếu tố, rất nhiều phương tiện để tạo ra phước đức cũng như tạo sự hạnh phúc và an lạc cho ta.
Ở giữa đời này người nghèo nhất vẫn là người có thể sử dụng phương tiện vốn có của mình để tu tập và tạo ra hạnh phúc. Người nghèo nhất ở trong đời cũng có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Có người nào ở trong đời mà không có mắt không? Giả sử như họ bị mù thì họ còn có tai. Giả sử như họ điếc thì họ cũng còn có mũi. Nếu họ bị điếc mũi nữa, thì họ còn có miệng, mà nếu bị câm nữa, thì cũng còn có thân thể. Khi đã có thân thể thì họ có tâm ý. Do đó, người nghèo nhất cũng có thể tu tập để tạo ra hạnh phúc trong đời sống hằng ngày của chính mình, vì sao? Vì giàu hay nghèo gì thì đối với mọi người ai cũng đều có tâm ý cả. Có tâm ý là ta đã có điều kiện căn bản để thiết lập sự tu tập và tạo ra hạnh phúc cho ta và cho mọi người.

Đôi mắt là cửa ngõ vào và ra Niết Bàn hay Sinh Tử:
Đôi mắt của mỗi chúng ta là phương tiện để chúng ta có thể tạo ra hạnh phúc và an lạc cho ta. Nếu ta biết sử dụng đôi mắt của ta với tâm ý chánh niệm, ý thức tỉnh giác thì đôi mắt của ta là một phương tiện tích cực để tạo ra hạnh phúc cho ta.
Với đôi mắt có ý thức chánh niệm tỉnh giác, ta nhìn mọi hiện tượng của thế gian với tâm không chiếm hữu, với tâm phụng sự lợi ích cho mọi người và mọi loài, thì đôi mắt của ta là một phương tiện để giúp ta thành tựu hạnh phúc lớn rộng trong đời sống con người và giúp ta đi tới được với đời sống cao thượng. Vậy, đôi mắt là phương tiện giúp ta thực hiện hạnh phúc, thực hiện an lạc, thực hiện giải thoát một cách có hiệu quả.
Thưa đại chúng,
Khi chúng ta nhìn một người hay một sự kiện mà ta thiếu chánh niệm, thiếu tỉnh giác thì ta nhìn sự kiện đó, đối tượng đó bằng con mắt thèm khát.
Khi ta nhìn sự kiện, nhìn đối tượng bằng đôi mắt thèm khát là ta nhìn bằng nhục nhãn.
Nhìn ai đó mà nhìn bằng đôi mắt thèm khát và muốn chiếm hữu, như vậy là ta đã nhìn cuộc đời, nhìn đối tượng bằng nhục nhãn. Cái nhìn nhục nhãn hay còn gọi là cái nhìn bằng mắt thịt sẽ tạo ra khổ đau cho ta, sự thất vọng cho ta. Bởi vì sao? Bởi vì mọi sự hiện hữu ở trong thế gian này không có cái nào hiện hữu để cho ta chiếm hữu, mà ta tưởng rằng, mọi cái hiện hữu đó là hiện hữu để cho ta chiếm hữu, cho nên ta bị thất vọng và khổ đau.
Đại chúng thấy, ngay cả bản thân mình mà mình có chiếm hữu được không? Cái ở trong tầm tay ta mà ta chưa chiếm hữu được huống là những cái mà ta chỉ tiếp xúc nó bằng mắt, thế mà ta muốn những cái đó thuộc về ta và ta muốn chiếm hữu nó. Chiếm hữu không được đương nhiên sẽ bị thất vọng và khổ đau. Bởi vậy, đôi mắt để chúng ta nhìn cuộc đời là mắt thịt thì chúng ta sẽ khổ đau, từ khổ đau này đến khổ đau khác, từ thất vọng này đến thất vọng khác. Bởi vậy mà đôi mắt có thể là phương tiện tạo ra khổ đau cho ta và cũng là phương tiện tạo ra an lạc và hạnh phúc cho ta.
Đôi mắt có thể tạo ra an lạc và hạnh phúc cho ta là đôi mắt đó có gốc rễ từ tâm hồn chánh niệm tỉnh giác của ta.
Đôi mắt có thể tạo ra hạnh phúc và an lạc cho ta là đôi mắt đó có gốc rễ từ bồ đề tâm rộng lớn của ta.
Nếu ta nhìn cuộc đời, nhìn mọi hiện tượng của thế gian: tài, sắc, danh, thức ăn, tiện nghi vật chất bằng một tâm thiếu chánh niệm tỉnh giác, và bị thúc đẩy bởi lòng tham của ta, thì tức khắc đôi mắt của ta sẽ trở thành vẩn đục, đôi mắt của ta sẽ trở thành ra tà kiến.
Tà kiến là gì? Tà kiến là nhìn sai vấn đề, tà kiến là cái nhìn không khám phá ra sự thật toàn phần mà chỉ khám phá ra một phần trong toàn phần và bị mắc kẹt trong cái một phần đó, hoặc có khi khám phá sai hoàn toàn, cái đó gọi là cái nhìn phiến diện, cái nhìn mê lầm, cái nhìn đó gọi là cái nhìn nhục nhãn. Trái lại, khi ta nhìn một sự kiện, khi mắt ta đối diện với sắc: sắc của con người, sắc của các loài chúng sinh, sắc của các sự vật. Ta nhìn và ta quán sâu vào chúng, và nếu sự nhìn sâu của ta được thiết lập trên nền tảng của chánh niệm, trên nền tảng của tuệ giác, thì đôi mắt của ta sẽ khám phá ra được sự vật xung quanh ta một cách chính xác. Sự khám phá ấy gọi là chánh kiến. Như vậy, đôi mắt của chúng ta là một phương tiện để cho chúng ta thực tập đời sống hạnh phúc nếu đôi mắt đó được gắn liền với những chất liệu chánh niệm, với những chất liệu chánh kiến ở trong tâm hồn ta, ở trong sự hiểu biết của ta.
Có những lúc mình nhìn sự kiện cần phải mở to đôi mắt ra, nhưng cũng có lúc mình nhìn sự kiện cần phải nhắm kỹ đôi mắt lại. Có những trường hợp mình mở to mắt ra để nhìn, mình mới khám phá ra được sự thật của vấn đề, có trường hợp mình phải nhắm đôi mắt lại để nhìn mới nhận ra sự thật của vấn đề. Ta mở to đôi mắt với chánh niệm tỉnh giác thì ta mới có khả năng khám phá ra được sự thật của vấn đề, và ta cũng có thể nhắm đôi mắt lại ở trong chánh niệm tỉnh giác, ta mới khám phá ra sự thật của vấn đề. Trái lại, ta mở to đôi mắt ra mà nhìn với tâm vọng niệm, với tâm điên đảo, với tâm tà kiến, với tâm sân hận, với tâm cố chấp thì đúng là ta có mở to đôi mắt đến mấy, thì ta cũng không thấy được sự thật của vấn đề. Ta có nhắm mắt lại mà nhắm trong vô minh, trong tà kiến, trong kiêu mạn, trong tham vọng, trong u mê thì dù ta có nỗ lực nhắm mắt đến mấy cũng không thấy được vấn đề. Cho nên, nhắm mắt hay mở mắt, nó phải được thiết lập trên nền tảng của chánh niệm, của tỉnh giác, của bồ đề tâm thì chúng ta mới khám phá ra sự thật của vấn đề mà ta cần khám phá.
Thưa đại chúng,
Đôi mắt của mỗi chúng ta là mỗi phương tiện. Nếu chúng ta biết sử dụng phương tiện đó cho mục tiêu tu học, cho mục tiêu hướng thượng, cho mục tiêu giải thoát, thì đôi mắt của chúng ta giúp cho chúng ta đạt đến năm mức độ của sự hiểu biết.

Mức độ thứ nhất là hiểu biết được cái nhìn của con người:
Ngày xưa khi Phật còn tại thế, có một cư sĩ đến thưa với đức Phật: Bạch Thế Tôn con thấy bác A này như vậy, cô B này như vậy, chị C này như vậy con không có vui, con không có bằng lòng. Đức Thế Tôn dạy: "Con nên nhìn mọi người bằng đôi mắt thịt, nhìn mọi người bằng đôi mắt thịt mình sẽ dễ có bạn, nhìn mọi người bằng đôi mắt sâu sắc mình sẽ khó có bạn”.
Các thầy tỷ khưu chỉ lỗi cho nhau, đức Phật cũng nói vậy: "Các thầy nên nhìn nhau bằng đôi mắt bình thường, còn nếu các thầy nhìn vấn đề bằng cặp mắt thiền quán thì các thầy khó mà thấy có sự thanh tịnh từ người khác”.
Tức là có những chuyện mà mình nhìn với cặp mắt bình thường thì cuộc đời nó còn có một chút để thương, để yêu và để quý; nhưng nếu mình nhìn bằng cặp mắt sâu sắc thì cuộc đời không còn chi để mà yêu để mà quý cả. Nhìn một vấn đề nào đó, một người nào đó, với một thân thể nào đó dưới cặp mắt bình thường, thì mình còn có chút để thương, để gần gũi. Nhưng mình nhìn bằng cặp mắt sâu sắc thì trong đời chẳng có mấy ai để mình gần gũi, để mình thương và để mình quý cả.
Vậy, nên đức Phật dạy có những vấn đề cần sử dụng mắt thịt, thì mình dùng mắt thịt để nhìn, có những vấn đề cần giải quyết bằng mắt thịt thôi, thì mình nên sử dụng mắt thịt để giải quyết vấn đề, biết sử dụng như vậy, thì mình sẽ có hạnh phúc.
Bởi vậy, khi mà mình nhìn vấn đề và giải quyết vấn đề bằng đôi mắt thịt, thì mình có thể quan tâm ngang những vấn đề mà mắt thịt của mình nhìn thấy, mình sẽ tạo ra được niềm tin cho mình và mình sẽ có hạnh phúc. Cái nhìn và giải quyết như vậy gọi là cái nhìn nhục nhãn, là nhìn với đôi mắt bình thường. Mình dùng cái nhìn bình thường để tạo ra chất liệu hạnh phúc cho mình và cho những người xung quanh.

Mức độ thứ hai là nhìn cuộc đời với đôi mắt của chư Thiên:
Khi mình dùng đôi mắt chư Thiên để nhìn cuộc đời, thì phước đức của mình nó lớn lên, mình hiểu sâu hơn. Khi mình nhìn hành động của một người khác bằng Thiên nhãn thì mình sẽ thấy người làm việc thiện như vậy, họ hạnh phúc như vậy là do động cơ nào, do tác nhân nào, do tác duyên nào mà họ có được hạnh phúc đó, mà họ có được sự an ổn đó? Tại sao người đó khổ đau? Do tác nhân nào? Do tác duyên nào mà đưa đến cái quả khổ đau như vậy?
Ta sử dụng đôi mắt của chư Thiên để thấy rõ nhân quả thiện ác ở trong thế gian, thấy cái ác của thế gian mà tránh, thấy cái thiện của thế gian, thì mình thân cận, gần gũi học tập và thăng tiến. Cái nhìn như vậy, tiếp xúc với cuộc đời như vậy gọi là Thiên nhãn. Bởi vì, con mắt của chư Thiên được hình thành bởi thiện nghiệp hữu lậu, mà do thiện nghiệp hữu lậu, nên còn rơi vào trong sinh tư,û nhưng mà mình có phước báu và mình đem đôi mắt có phước báu ở trong cõi sinh tử luân hồi mà nhìn, mà khám phá cuộc đời, mà hiểu cuộc đời. Sử dụng cái nhìn như vậy gọi là sử dụng đôi mắt của chư Thiên để nhìn cuộc đời.
Khi dùng Thiên nhãn để nhìn loài cá, tuy rằng bị thọ quả báo cá, nhưng có những loài cá bị làm thịt mà ăn, nhưng cũng có những loài cá được ở trong chậu kiểng để mọi người không ăn mà còn mua thức ăn ngon cho nó. Đồng là cá cả, đáng lẽ phải bị ăn thịt hết, nhưng có những con cá có phước báu hơn, nên không bị nằm phơi thây trên đĩa của bữa ăn, mà được ở trong chậu kiểng và con người phục vụ nó, chứ không phải nó phục vụ cho con người. Khám phá ra được sự thật nhân quả như vậy, khám phá ra được điều đó, dưới cái nhìn của chư Thiên để thấy nhân quả nghiệp báo của từng loài. Tuy ở trong cõi sinh tử, nhưng có loài nhận quả báo hết sức khốc liệt và có loài lại nhận quả báo hết sức nhẹ nhàng.
Ngay cả chiếc xe thôi, nếu ta nhìn chúng bằng đôi mắt của chư thiên: Như xe Dream, xe ô tô, có xe nó cũng có phước báo, có xe nó không có phước báu. Có những chiếc xe được sử dụng để đi giết người, nhưng có những chiếc xe nó được sử dụng để chở các bậc đức hạnh tu hành. Chúng đều là những chiếc xe cả, nhưng có chiếc chỉ là phương tiện để giúp người ta giết người, mà cũng có những chiếc xe là phương tiện giúp cho người ta tạo ra phước đức.
Có những chiếc xe người ta đi về lau chùi sạch sẽ, đậy mền cho nó, nhưng cũng có chiếc đi về người ta vứt ngoài hè. Chỉ là xe thôi, nhưng cũng có chiếc có phước báo, có chiếc không có phước báo. Rồi có những xe, tuy cùng sản xuất ra trong một hãng, nhưng rồi những chiếc xe đó xuất cảng ra các quốc gia, có những xe ở lại nội địa của Nhật, nội địa của Mỹ, có những chiếc xe thân phận của chúng xuất cảng đến Philippin, đến Việt Nam. Rồi ở Việt Nam có chiếc được đi ở thành phố lớn và sạch sẽ, có chiếc vô phước nó đi về những thành phố nhỏ, về thị trấn, lên núi chạy sỏi đá. Chỉ là xe thôi, nhưng có chiếc có phước đức, có chiếc vô phước đức, nhưng chúng đều có gốc rễ từ một hãng sản xuất.
Khi mình nhìn phước báu của từng loài, của từng đối tượng mà mình biết rõ thì cái nhìn đó được gọi là Thiên nhãn, đó là con mắt nhìn mà biết rõ bản chất thiện ác, biết rất rõ bản chất xấu tốt của từng đối tượng.

Cách nhìn thứ ba là nhìn nhận vấn đề bằng đôi mắt tuệ:
Người mà có chất liệu của đôi mắt tuệ khi nhìn vào ngũ dục của thế gian, thì vị đó biết rõ ngũ dục của thế gian chúng có vị ngọt.
Nhìn vào sắc của thế gian, thì biết rất rõ là sắc có vị ngọt và có sức hấp dẫn của nó. Ai nói sắc đẹp là không hấp dẫn? Ai nói danh vọng là không hấp dẫn? Ai nói tiền tài là không có vị ngọt và không hấp dẫn? Ai nói thực phẩm ăn uống là không có vị ngọt và không hấp dẫn?
Trong tất cả những cái đó đều có vị ngọt và đều hấp dẫn. Vị có mắt tuệ nhìn thấy rằng, tất cả ngũ dục của thế gian đều có vị ngọt, đều có hấp dẫn nhưng mà sau vị ngọt đó là cái nguy hiểm. Như vậy, người có mắt tuệ nhìn cuộc đời, không những chỉ dừng lại ở nơi thế giới hiện tượng mà đã đi sâu vào thế giới bản chất và thấy được cái hiểm họa do cái bản chất tạo ra thế giới hiện tượng đó như thế nào, cái nhìn như thế là cái nhìn của mắt tuệ, nhìn như vậy rồi, thấy được nguy hiểm của vị ngọt các dục thế gian, vị đó mong muốn thoát ly, vượt ra khỏi chúng. Cái nhìn như vậy là cái nhìn của mắt tuệ.
Mình nhìn ngũ dục của thế gian mà không thấy nó là nguy hiểm mà chỉ thấy vị ngọt thôi, đó là cái nhìn nhục nhãn. Nhìn ngũ dục của thế gian thấy có vị ngọt và dùng đủ các phương pháp để mà hưởng thụ vị ngọt đó, chứ không thấy cái nguy hiểm của chúng. Đó là cái nhìn của nhục nhãn và thiên nhãn.
Nhìn ngũ dục của thế gian thấy có vị ngọt và nguy hiểm, muốn thoát ly vị ngọt đó, thoát ly cái nguy hiểm của ngũ dục thế gian đó là cái nhìn của mắt tuệ.
Lại nữa, khi mình đưa mắt tuệ để nhìn mọi sự hiện hữu giữa cuộc đời, thì mình phải biết không có một sự hiện hữu nào độc lập, tất cả mọi sự hiện hữu đều liên hệ chặt chẽ với nhau dưới dạng này hoặc dưới dạng khác.
Khi nhìn vào trong cái mặt của mình, mình nghĩ rằng, cái mũi nó hoạt động độc lập với miệng, miệng hoạt động độc lập với tai, tai hoạt động độc lập với tim, tim hoạt động độc lập với bao tử… đó là cái nhìn của nhục nhãn, của thiên nhãn. Nhưng, dưới cái nhìn của tuệ nhãn thì mũi không thể hoạt động độc lập với miệng, miệng không thể hoạt động độc lập với tai, da không thể hoạt động độc lập với máu… cái nhìn mà thấy ở giữa này không có sự hoạt động nào độc lập cả, mọi hoạt động đều có tính cách tương tác liên đới, cái nhìn như vậy là cái nhìn của mắt tuệ. Khi ta có cái nhìn thường trực như vậy, thì tính kiêu mạn nơi ta mới tiêu, cái chấp thủ tự ngã ở nơi ta mới tiêu.
Nếu ta nhìn không thường trực bằng mắt tuệ, thì cái chấp ngã của ta nó trồi lên. Do đó, mình không ngạc nhiên, khi vào chùa, ai cũng dễ thương, ai cũng hiền, nhưng khi ra khỏi chùa, thì không còn hiền, không còn dễ thương nữa. Bởi vì khi vào chùa, mình có điều kiện để thực tập đôi mắt tuệ và trong giây phút đó, mình có một chút tuệ, nên mình dễ thương, nhưng ra khỏi chùa là mình không còn điều kiện để thực tập đôi mắt tuệ nữa, và đôi mắt tuệ trong mình vắng bóng, và cuối cùng nó trở về lại với mắt thịt, trở về lại với thế giới của nhục nhãn. Cho nên, các phiền não lại biểu hiện lên trong lời nói và việc làm của ta, khiến cho ta không những ưu phiền mà còn làm cho nhiều người ưu phiền nữa.
Cho nên, một vị sử dụng đôi mắt của trí tuệ để tạo ra hạnh phúc cho mình, thì vị đó hạnh phúc rất là lớn, lớn so với cái nhìn của mắt thịt, so với cái nhìn của mắt chư Thiên. Vị đó hạnh phúc lớn lắm và vị đó khám phá ra rất nhiều cái đẹp, cái chân thật của mọi vấn đề.

Mắt thứ tư là pháp nhãn tức là con mắt của chánh pháp:
Mình dùng đôi mắt của chánh pháp mà tiếp xúc với các hiện tượng, tiếp xúc với các đối tượng và mình đưa đôi mắt của chánh pháp mà tiếp nhận chánh pháp, để hành trì thì phước đức của mình rất lớn.
Nhìn bằng đôi mắt của chánh pháp là nhìn như thế nào? Đôi mắt của chánh pháp là đôi mắt chúng ta nhìn mọi hiện tượng, mọi sự hiện hữu không có sự hiện hữu nào đơn điệu mà hình thành, không những vậy mà chính các yếu tố tạo nên các sự kiện, không có yếu tố nào tự nó hiện hữu và tồn tại, tất cả chúng đều là sự rỗng lặng và di chuyển liên tục, chúng biến thiên liên tục. Tất cả pháp môn mà đức Phật dạy cho chúng ta đều là phương tiện, chúng chỉ là phương tiện giúp ta đi tới giải thoát, chứ pháp không phải là giải thoát. Do nhân duyên tụng kinh, giúp chúng ta đi đến đời sống giải thoát, chứ tụng kinh không phải là giải thoát.
Có nhiều người tưởng rằng, tụng kinh là giải thoát, cho nên khi cha mẹ chết, ông bà chết, họ mời quy quý thầy về tụng kinh hoặc là mình tụng kinh cho cha mẹ hoặc ông bà của mình, rồi mình cho rằng, như vậy là ông bà hay cha mẹ mình đã giải thoát. Sự suy nghĩ như vậy chẳng có gì chính xác cả. Tụng kinh chỉ là phương tiện đi tới với giải thoát, cho nên ta tụng kinh với chánh niệm, với tỉnh giác, tụng kinh với tâm vô ngã, thì kinh đó có tác dụng giúp ta đi tới đời sống giải thoát và có tác dụng giúp ta cầu nguyện cho ai đó, thì người đó nhân nơi cái duyên đó, mà có thể sinh khởi tâm chí hướng tới đời sống giải thoát, chứ tụng kinh không phải là giải thoát. Đây là điều mà chúng ta bị hiểu lầm rất nhiều.
Ngồi thiền không phải là giải thoát. Ngồi thiền chỉ là phương tiện giúp ta đi tới với đời sống giải thoát, giúp ta thực tập đời sống giải thoát. Cho nên, khi mà ta ngồi thiền, ta tụng kinh, ta trì chú, ta bố thí,… thì đó chỉ là phương tiện huân tập và khơi mở chủng tử giải thoát giác ngộ trong tâm thức ta. Khi ta thực tập các phương pháp đó, phương pháp đó chế tác ra chất liệu của giải thoát trong tâm thức ta và chất liệu đó lớn mạnh ở trong đời sống của ta, thì việc tụng kinh của ta thành công, việc ăn chay của ta thành công. Cho nên, ăn chay làm cho ta có thành công hay không, là trong khi và sau khi ăn chay, ta hình thành được chủng tử từ bi vô lượng hay không, nếu không thì việc ăn chay của ta chưa thành công và nếu có, thì chính cái chủng tử từ bi vô lượng đó, mới bảo chứng thành công cho việc ăn chay của ta. Khi ăn chay như vậy, nó nuôi lớn tâm từ bi trong ta và nó giải tỏa được mọi oán kết giữa ta và chúng sinh. Cái nhìn như vậy là cái nhìn của pháp nhãn, cái nhìn của chánh pháp. Cho nên, trong kinh Kim Cang, đức Phật nói với ngài Tu Bồ Đề rằng: "Tu Bồ Đề, Như Lai thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp".(Này Tu Bồ Đề, Như Lai thuyết pháp ví như chiếc thuyền đưa người sang sông, pháp còn phải bỏ đi huống là không phải pháp).
Như vậy, giáo pháp của Đức Phật nói ra ví như chiếc thuyền đưa người sang sông, người sang sông khi đã qua bờ bên kia rồi, mà cứ ngồi trên thuyền, thì có qua được và lên bờ không? Hoặc lên bờ rồi, mà còn tiếc chiếc thuyền, vác thuyền trên vai mà đi, thì có thong dong tự tại được không?
Cũng vậy, pháp mà mình thực tập có mục đích là đạt được đời sống giải thoát. Cho nên, khi đã đạt được đời sống giải thoát rồi, thì ta không nên vướng mắc vào phương tiện, ta mới có khả năng để thể nhập hoàn toàn vào pháp giải thoát đó, nếu ta còn kẹt ở nơi pháp ta chứng, thì ta và pháp còn là hai. Vì còn là hai, cho nên ta còn nặng nề, còn vướng mắc và không tự tại được. Bởi vậy, nên ta nhìn mọi hiện tượng, mọi đối tượng và phải nhìn chính ta bằng đôi mắt của chánh pháp, thì ta mới có thể khám phá ra được cái sự thực toàn diện của ta, của người và của mọi hiện tượng ở chung quanh ta. Nhìn tất cả cuộc đời với đôi mắt như vậy, gọi là nhìn đời bằng đôi mắt của chánh pháp. Cho nên, người Phật tử học đạo nhìn đời bằng đôi mắt của chánh pháp, thì đời sống của họ là rất cởi mở, rất phóng khoáng, rất thoải mái, không có thành kiến, không có sự cố chấp. Bởi vì sao? Bởi vì họ biết hết thảy pháp môn chỉ là phương tiện mà thôi.
Người giàu họ có tiền, họ đi máy bay, mình nghèo mình đi xe lửa, đi máy bay sau một giờ thì đến Sài Gòn, mình đi xe lửa thì sau 24 giờ mình cũng đến Sài Gòn, trước sau gì rồi mình cũng đến, vấn đề là mình có đi hay không? Hễ có đi là có định hướng và có lên đường thì dứt khoát sớm hay muộn gì cũng tới. Có đôi người không có tiền đi tàu lửa, thì đạp xe đạp, khoảng sáu tháng là tới nơi. Thường thường mình đả kích nhau cái phương tiện, đã là phương tiện thì có phương tiện nhanh, phương tiện chậm, nhưng mà ta đã lầm phương tiện là rốt ráo, là cứu cánh. Cái lầm như vậy rất là nguy hại.
Cho nên, người có đôi mắt của chánh pháp, người ấy nhìn tất cả pháp tu, pháp hành hay nhìn các pháp vô vi, các pháp sinh diệt rất là thanh thản, rất là sâu lắng, ai thực hành pháp nào mình cũng thương hết, mình cũng vui vẻ, mình biết rất rõ, có pháp môn, thì đi chậm, đi loanh quanh, có pháp môn thì đi thẳng, pháp môn này đi mất thời gian ít, pháp môn kia đi mất thời gian dài. Đôi khi người ta đi nhanh lại không tới mà còn bị tai nạn nữa! Bởi vì, mình không biết lái xe hơi mà mình ưa lái xe hơi đểø đi, nên có sự cố thôi. Cho nên, có đôi người ham pháp, nói mình là tu theo pháp Tối thượng thừa, còn vị kia là tu theo pháp nhỏ, bởi vậy mà tâm kiêu mạn nổi dậy. Pháp Tối thượng thừa là pháp môn của bậc đại căn, đại trí, nhưng căn trí của ta thì nhỏ, mà lại sử dụng căn thân, khí giới của bậc đại căn, đại trí, cho nên căn thân và khí giới của ta bị nổ toang thành từng mảnh vụn. Bởi vì, cái phát điện của mình chỉ xài đến 50W thôi, thế mà mình xài đến 70W, nên bị hỏng ngay là phải, huống chi là xài quá. Nếu khả năng của mình là 50W, mình chỉ nên xài 40W thôi, chứ xài 50W, nó cũng mau hư, xài khoảng 50W, thì nó sáng lắm, nhưng rồi sẽ tắt sau đó, và khoảng 60W thì bật lên là nó cháy liền.
Cho nên, có người bỏ đường tu nửa chừng, bởi vì cái khả năng để tu thì ít, mà cái ước muốn của đường tu thì nhiều; cái điều kiện thì ít, mà cái tham vọng thì nhiều, cho nên có nhiều vị xuất gia cũng như tại gia bị thất bại trên bước đường tu học, vì sao? Vì những vị đó không có đôi mắt của chánh pháp để nhìn.
Có khi chưa xuất gia, ta đọc được kinh sách, ta rất thích đời sống xuất gia. Có nhiều vị mới vào chùa không dùng cơm chiều, họ chỉ ăn một ngày một bữa thôi, vì người xuất gia là chỉ ăn một ngày một bữa. Một người có kinh nghiệm tu học lâu năm và có đôi mắt của chánh pháp, họ sẽ nhìn vị kia mỉm cười và nói rằng: "con cố gắng ăn đi cho có sức khỏe, con còn phải tiếp tục để thực tập, nếu không có sức khỏe thì rất khó cho sự tu tập con à!”. Nhưng, vị đó cũng không nghe, cũng tiếp tục ăn một ngày một bữa thôi. Rồi thời gian đi qua vài ba tháng, hay vài ba năm, vị đó không những ăn một bữa mà ăn nhiều bữa, không những ăn ban ngày mà còn ăn cả ban đêm, không những ăn chay mà ăn luôn cá thịt. Tại sao như vậy? Tại vì, ý chí và thân thể không giữ được tâm của sự tu học ban đầu. Tâm tu học lúc đầu bao giờ cũng mạnh, mạnh có khi đến mức hăng chát, cực đoan nữa! Và cũng có những vị chỉ cần khởi tâm là đã thành tựu, cất bước là đã đến nơi. Sự thành đạt như vậy, là vì căn cơ của họ lớn, họ chỉ cần đủ duyên là họ đạt được Thánh quả vô lậu, còn ta nhiều đời chìm nổi, bây giờ chỉ mới kết duyên với sự tu học thôi, mà duyên như vậy còn quá yếu, nếu ta thực tập quá mạnh, thì sự tu tập của ta sẽ bị hỏng. Có những vị khi học pháp, họ thực tập một cách trọn vẹn, họ rất thích thú và họ đạt tới sự thành công ngay, vì họ không phải chỉ là một hành giả và một vị thánh giả ở trong một đời này, mà họ đã tu tập nhiều đời rồi, cho nên khi họ xuất hiện trong cuộc đời này, nghe pháp là họ thực tập thành công ngay.
Quý vị thấy ngày xưa, năm anh em Kiều Trần Như, khi gặp Đức Phật tại Vườn Nai, Ngay trong buổi chuyển pháp luân Đức Phật nói rằng: "Hãy đến đây, nơi an toàn và hạnh phúc hỡi các tỷ khưu!” Nghe tiếng gọi của Đức Thế Tôn như thế, năm vị đó đều trở thành tỷ khưu và các oai nghi của họ đều đầy đủ như là những vị tỷ khưu đã đắc đạo, vì sao như vậy? Bởi vì căn cơ, trình độ tu học của họ đã trải qua nhiều đời rồi. Trái lại, mình thì còn cả mắm nêm, cả cá và ruốc, còn hôi mùi tanh thịt cá và còn cả đủ thứ trong đời, thì làm sao mình có thể sánh với sự tu tập thành đạt nhanh chóng như các Ngài. Mình không thể so sánh, vì mình giống như con cá bị ướp mắm, vớt lên rửa sạch, nhìn bên ngoài có vẻ sạch sẽ, nhưng vẫn hôi mắm như thường, vì chất mắm đã ăn sâu vào trong tế bào, vào trong máu, cho nên ta nhìn bên ngoài không thấy nhớp chi cả, nhưng vẫn cứ hôi mùi mắm .
Nên, với con mắt chánh pháp, ta nhìn sâu vào trong ta, thì ta thấy căn khí của ta, ta biết rằng, dù tập khí nghiệp chủng của chúng ta đối với thế gian còn rất nặng, nhưng ta phải biết rằng, nghiệp chủng ấy vốn không có tự tánh, chúng có thể chuyển hóa được bởi những nhân duyên tốt, miễn rằng cần phải có thời gian. Cái nhìn như vậy là cái nhìn của con mắt chánh pháp. Và vị Bồ Tát nhìn cuộc đời như vậy, nên ai đến với Bồ Tát, thì Bồ Tát cũng hoan hỷ tùy phương tiện mà cởi mở cho họ, Bồ tát không từ chối ai cả, dù là người đó rất xấu, họ đã từng chém cha giết mẹ, bất hiếu, bất mục, nhưng mà đến với Bồ Tát, thì Bồ Tát vẫn sử dụng phương tiện đúng với căn cơ của họ, đúng với trình độ của họ, đúng với nghiệp cảm của họ, để cho họ có nhiều cơ hội thay đổi đời sống của họ. Vị Bồ Tát mà sử dụng phương tiện như vậy là nhờ có đôi mắt của chánh pháp. Nên, Bồ Tát nhìn ai không có thất vọng, còn nếu ta nhìn họ bằng nhục nhãn, thì đôi khi ta dễ thất vọng. Ta nhìn đời bằng nhục nhãn, nhìn mọi đối tượng bằng nhục nhãn, là ta chỉ thấy dược một đoạn trong con đường dài thôi. Cuộc đời không phải là một đoạn, không phải là một khúc mà là dài vô tận, ta chỉ nhìn đời một khúc, một đoạn nên làm sao mà nhìn nhận cho đúng được. Cuộc đời không phải chỉ là một vấn đề mà mình chỉ nhìn cuộc đời bằng một vấn đề thôi, thì làm sao cho đúng được. Mình thương một người nào đó, là vì bất chợt, mình gặp một điểm nào đó tương đồng với mình là mình thương, trong lúc đó mình không biết người đó còn có những điểm khác không dễ thương nữa. Nên khi mình nhìn cái dễ thương của người đó hợp với mình thì mình thương, nhưng khi cái dễ thương của người đó đi qua, và những cái không dễ thương của người đó lại xuất hiện, thì khi đó mình ghét người đó lắm à!(tại sao trước đó mình thương mà bây giờ mình ghét?). Sở dĩ như vậy, vì nhục nhãn của mình chỉ thấy được một khúc, hay một đoạn thôi. Nếu khi khúc thương hay giai đoạn thương ấy đi qua, là cái ghét lại thay thế. Nhưng, thật ra cái thương và cái ghét không phải từng khúc mà là cả một dòng, nó thay nhau diễn biến liên tục trong cuộc sống của chính mình. Cho nên, khi nhìn một đối tượng, mình phải nhìn bằng sự trôi chảy liên tục của dòng nhân duyên, nhân quả, nghiệp báo của đối tượng, thì cái thương, cái ghét ở nơi con người mình, nó mới lắng xuống được, và nó chỉ còn lại những cái thông cảm, bao dung, tha thứ, dìu dắt và nâng đỡ.
Cái nhìn từng khúc, từng đoạn là cái nhìn nhục nhãn, cho nên thế gian này cái thương nó trở thành cái ghét không mấy hồi, cái ghét trở thành cái thương không mấy chốc; và chính cái thương, cái ghét đó đã làm cho thế gian khổ đau rất nhiều.

Khổ đau vì không có pháp nhãn:
Thưa đại chúng,
Chiều hôm qua tôi có đi thăm một gia đình bệnh nhân chúng tôi thấy ngôi nhà đó sang trọng, có khu vườn xinh đẹp, trong gia đình rất đầy đủ tiện nghi, tiện nghi lắm, tiện nghi hơn nhà anh Tú chị Nga nhiều, tiện nghi hơn nhà anh Viên chị Phụng nhiều, tiện nghi hơn nhà anh Lai chị Mỹ nhiều,.. có thể nói là tiện nghi hơn tất cả ngôi nhà nào của quý vị đang ngồi ở đây. Gia đình có trí thức, giàu có, con cái có công ăn việc làm, ai cũng có sự nghiệp cả, nhưng ngồi một lát, thấy không khí gia đình không có hạnh phúc. Chị đó nói với tôi: "Thầy lâu ngày quá, bốn năm rồi con không gặp". Và rồi tôi nói đùa với anh: "anh có biết nhà thơ TB không?" Khi nói như vậy, anh đó bảo: "Thầy ơi, nhà con không có cho con lấy hiệu là nhà thơ TB nữa- cấm". Anh vừa nói như thế, thì chị ngồi đó và liền tỏ ra gay gắt với thái độ khó chịu. Anh cười và nói: "Té ra cái gì mình kín đáo, nhưng rồi mình cũng bị khám phá. TB là tên người yêu của con khi còn trẻ, chỉ yêu thôi, chứ không có đời sống lứa đôi, nên khi làm thơ để kỷ niệm cho tình yêu đầu đời, mà lấy bút hiệu ấy, nhưng nhà con không có biết, lâu ngày mới khám phá ra được, nên cấm tuyệt, không được lấy tên tác giả là TB nữa". Lúc đó tôi thấy chị ấy rất là tội nghiệp.
Quý vị thấy, ở trên đời này, khổ đau không phải là không có nhà cửa, không có cơm ăn, không có trí thức, không có sự nghiệp mà khổ đau chỉ vì cái tên TB! Cái khổ đau do cái tên TB đem lại, nó còn bi đát hơn cả con cái thất nghiệp, hơn cả cha mẹ chết, hơn cả mất tiền của. Nhưng thật ra, cái tên TB chỉ là cái ngôn từ,ù chỉ là ngôn ngữ đùa cợt cho vui thôi, chẳng có ý nghĩa chi cả, nhưng nếu nó bị gắn chặt vào con người, dưới cái nhìn của nhục nhãn nó sẽ trở thành chất liệu khổ đau triền miên trong cuộc sống con người. TB dưới cái nhìn của Thiên nhãn nó cũng khổ đau qua một dạng khác tinh tế hơn. Nhưng, TB được nhìn dưới cái nhìn của pháp nhãn, thì TB được chuyển thành ra không gian thênh thang, vì quả thật TB vốn không có tự tánh. T và B là hai thực thể không thể tách rời nhau. T có mặt trong B và B có mặt trong T. Nên có khi B chính là T và T chính là B. Vậy, tự tính nào tính thiệt của T và B mà khiến cho ta bị mắc kẹt vào. Hễ ta bị mắc kẹt vào T hay B, thì ta đều bị khổ đau cả. Cái khổ đau bởi cái tên gọi không đâu ấy, đã làm cho từng gia đình nổi lên sóng gió, đã làm cho hành tinh nầy đắm chìm trong biển khổ đau.
Nên, nếu mình nhìn mà thiếu tuệ giác, thì cái gì cũng làm cho mình khổ đau cả, chứ không phải chỉ là cái tên ghép giữa người này người kia. Cho nên, dưới cái nhìn của đôi mắt chánh pháp là mình nhìn toàn thể cái thân này không có tự tính, mà từng yếu tố tạo nên thân thể nầy như: Sắc uẩn cũng không có tự tính, thọ uẩn cũng không có tự tính, tưởng uẩn cũng không có tự tính, hành uẩn cũng không có tự tính, thức uẩn cũng không có tự tính,… huống chi là danh hư của thức uẩn, danh hư của thọ uẩn, sắc uẩn,… Chính những cái đó cũng không có tự tính huống chi danh hư của nó. Thế mà đôi khi ta bị kẹt vào cái danh từ đó mà làm cho ta khổ đau. Cho nên, quý vị thấy, có tài sản, có nhà cửa, ruộng vườn, có trí thức, có sự nghiệp trong đời, có danh vọng trong đời,… mà vẫn không có hạnh phúc là bởi vì sao? Bởi vì ta không có cái nhìn của tuệ nhãn, không có cái nhìn của pháp nhãn, chỉ là cái nhìn của nhục nhãn, nên ta không thể nào tạo ra được hạnh phúc cho chúng ta. Chính vì vậy mà quý vị phải tu để cho có tuệ nhãn và pháp nhãn.
Cũng nhà đó, cũng vợ đó, cũng con đó, cũng sự nghiệp đó, cũng trí thức đó mà ta nhìn với tuệ nhãn, với pháp nhãn thì tức khắc tất cả những yếu tố đó là những phương tiện tích cực tạo ra hạnh phúc cho ta. Như vậy có hạnh phúc dễ không hay khó? Quý vị tu học một ngày khi về nhà thực tập cho sâu sắc đem con mắt của tuệ nhãn mà nhìn mọi hiện tượng, mọi sự giao tiếp, mọi sự tiếp xúc, đem đôi mắt của chánh pháp mà nhìn mọi hiện tượng, mọi sự giao tiếp, mọi sự tiếp xúc tôi tin chắc rằng quý vị sống ở đâu cũng hạnh phúc, đi đến đâu cũng an toàn, ở với ai cũng tốt đẹp, chứ đừng nói, tôi chỉ chơi với người này, còn người kia không chơi được, đó là cách nhìn và cách nói có gốc rễ từ nhục nhãn. Với cách nhìn và cách nói như vậy, thì ráng màchịu lấy khổ đau thôi!
Dù cho một người xấu đến mấy đi nữa, thì cái xấu trong người họ cũng không có định tính. Họ xấu, bởi vì họ gặp thầy tà, bạn ác, và họ sống trong hoàn cảnh bi đát như vậy, nên họ bị như vậy. Nếu họ gặp thầy hiền, bạn tốt, hoàn cảnh tốt, thì chắc chắn cái xấu đó sẽ giảm thiểu và cái tốt sẽ bắt đầu phát sinh và lớn dần.
Quý vị mà biết như vậy, nhìn được sự kiện như vậy, nhìn đời bằng đôi mắt như vậy. Tôi tin chắc rằng, quý vị là những người rất yêu đời, sống rất là đẹp, không có chi để mà than dài, không có chi để mà thở ngắn, không có chi để mà thốt ra những lời lẽ não nuột. Cuộc đời chẳng có chi để ta buồn hay để ta mơ mộng, cũng chẳng có chi để ta hy vọng hay thất vọng. Cuộc đời là vậy, mà ta có thấy được cái như vậy của cuộc đời để sống vui, sống đẹp, sống hùng tráng và hữu ích hay không? Núi muôn ??i v?n là cao, nu?c t? ch? cao ch?y v? chỗ thấp, biển ngàn đời nước mặn, mặt trời, mặt trăng thì sáng, quả đất thì làm chỗ lưu trú và nuôi dưỡng muôn loài,…chuyện đời, xưa cũng như vậy, nay cũng như vậy và ngàn sau cũng như vậy, ta có thấy được điều đó không? Nếu không thấy được như vậy, thì ta làm sao tránh được những thất vọng và khổ đau? Ta khổ đau là do ta không nhìn vạn hữu bằng đôi mắt của tuệ nhãn và pháp nhãn. Và ta không chuyển đổi tâm ta và mọi hành động cũng như cuộc sống của ta bằng di theo cách nhìn ấy. Ta hãy nhìn và sống theo cách nhìn của pháp nhãn và tuệ nhãn là ta sẽ có được đời sống giải thoát, đời sống tự tại. Nếu không có cách nhìn và cách sống đó, thì ta làm cái gì là ta bị mắc kẹt bởi cái đó. Bị mắc kẹt là đời sống của ta chẳng khác nào loại cá cắn câu. Cá cắn câu, chúng chỉ đau khổ theo bản năng, còn con người mà bị cắn câu bởi ngũ uẩn và ngũ dục, thì không những chỉ đau khổ theo những sinh hoạt bản năng mà còn bị đau khổ bởi những sự sinh hoạt mắc mớ theo ý thức cấp cao nữa!

Cách nhìn thứ năm là Phật nhãn:
Cho nên, sau khi đại chúng tu học rồi, mình nhìn tất cả mọi vấn đề phải nhìn từ nhục nhãn trước đã. Mình nhìn bằng nhục nhãn là để chấp nhận nơi gặp gỡ giữa con người với con người. Nếu mình đang sống với thế giới con người mà mình gạt qua cách nhìn ấy, mình sẽ không bao giờ gặp được con người giữa này để nói chuyện. Ta phải nhìn đối tượng bằng cặp mắt bình thường, sau đó ta hãy nhìn sâu vào đối tượng bằng cặp mắt của Thiên nhãn, rồi nhìn nhau bằng cặp mắt của Tuệ nhãn, và tiến tới nhìn nhau bằng cặp mắt của Pháp nhãn và Phật nhãn.
Với những cách nhìn như vậy, không những chỉ giúp ta khám phá ra mọi chân nghĩa và giá trị của cuộc sống, mà còn giúp ta chế tác ra những chất liệu hạnh phúc và an lạc đích thực cho chính sự thăng hoa của chúng ta.
Khi ta biết sử dụng đôi mắt nhục nhãn để nhìn, thì chính đôi mắt ấy cũng có thể tạo ra hạnh phúc cho chính ta, bởi vì ta biết chính đôi mắt ấy là phương tiện mà. Người biết sử dụng như, gọi là người không bị mắc kẹt, mà trong kinh Kim Cang gọi là "Ưng vô sở trú nhi sanh kỳ tâm", tức là hãy phát tâm không nên bị mắc kẹt, khi tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Do tâm ta không bị mắc kẹt, nên ta luôn luôn khám phá ra được cái mới, từ nơi cái thấy của ta, từ nơi các đối tượng và từ nơi cái nhận định mọi vấn đề của ta.
Rồi, đến cái nhìn cuộc đời bằng Phật nhãn, nghĩa là sử dụng đôi mắt của Phật để mà nhìn cuộc đời.
Khi mà mình sử dụng đôi mắt của Phật mà nhìn cuộc đời, mình thấy rằng, tất cả chúng sanh đều có Phật tính và tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật.
Nhìn thấy tất cả chúng sanh đều có Phật tính và tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật; đó là cách nhìn bằng đôi mắt Phật. Khi có cách nhìn như vậy, nó sẽ tỏa ra cách hành xử bình đẳng đối với mọi người và mọi loài một cách tự nhiên. Bình đẳng ở đây, không phải là bình đẳng ngang bằng, sổ thẳng như nhau, mà bình đẳng ở đây là phải thấy tất cả chúng sanh đều có Phật tính, nghĩa là trong mỗi tự thân của chúng sanh đều có Phật tính, nhưng mà Phật tính của chúng sanh đang bị nghiệp báo và phiền não của họ che lấp. Nếu phật tính của người nầy bị nghiệp báo và phiền não của họ vùi sâu hơn phật tính của người kia, thì với cách nhìn và cách giải quyết của phật nhãn là phải biết vận dụng phương tiện để giúp cho từng loại chúng sanh tháo gỡ những thứ phiền não, nghiệp báo đang che lấp phật tính đó. Nếu phật tính của một người bị che cạn, thì nên sử dụng phương tiện nào để giúp họ. Và nếu một người mà phật tính của họ bị các phiền não, nghiệp chướng che lấp rất sâu, thì phải giúp họ phương tiện như thế nào để khai quật, để giúp cho Phật tính ở nơi họ tiết lộ ra, hiển lộ ra, cách nhìn và cách sử các phương tiện thiện xảo của phật như vậy, đều là từ cách nhìn và cách sử dụng mọi phương tiện một cách bình đẳng.
Trong gia đình mình, con cái có năm đứa, nhưng mà mình đưa mắt Phật mà nhìn chúng, thì thấy đứa nào cũng có Phật tính cả, nên thấy đứa nào cũng có cái dễ thương của nó hết, mỗi đứa dễ thương mỗi kiểu, nhưng muốn nuôi dưỡng cái dễ thương của nó, thì mỗi đứa ta phải nuôi một kiểu khác nhau, chăm sóc một kiểu khác nhau. Nếu cả năm đứa đều được chăm sóc theo một kiểu, thì sự chăm sóc đó không còn là cái chăm sóc từ mắt Phật nữa. Biết được căn tính của chúng không đồng nhau, biết được chủng tử tạo nên chúng không đồng nhau, biết được những sở thích của chúng không đồng nhau, cái phương tiện sống của mỗi đứa mỗi khác, nên ta phải biết được cái tướng dụng của từng đứa để chăm sóc; thì cái chăm sóc đó, cái thấy đó, cái sử dụng đó là những cái thấy và những cái làm của chư phật. Có đứa mình phải sử dụng phương tiện bỏ nhà ra đi mới chăm sóc được hạnh phúc của nó. Có đứa mình phải ở nhà bên nó, thì mới chăm sóc được hạnh phúc và sự lớn khôn của nó. Chuyện cha mẹ bỏ nhà ra đi hay không bỏ nhà ra đi chỉ là phương tiện tạo nên hạnh phúc và sự trưởng thành cho con cái. Sử dụng phương tiện bỏ nhà ra đi để cho con cái có khả năng tự lập là một trong những phương tiện giáo dục độc đáo của kinh Pháp Hoa.
Cha ở một bên, nên con cái thấy cha là thường, dạy gì cũng không nghe, nhưng khi người cha biết như vậy, ông bỏ đi qua nước khác và ông cho người về bảo cha quý vị đã chết rồi, cho nên mấy đứa con có đứa say vừa vừa, khi nghe cha chết, nó buồn tủi, có đứa say sưa quá mức, nghe cha nó chết, nó chẳng biết gì cả, đứa say vừa vừa, sau khi tỉnh rồi, nó đi ra giữa xã hội thấy mọi người có cha, khi đó nó mới có cảm giác trống trơn cô đơn, đôi khi người ta nhiếc mắng đồ con không có cha, tự nhiên nó mặc cảm và khao khát được có cha. Khi mà mình khao khát rằng, mình có ông cha mà ông cha xuất hiện thì mình thế nào? Vui mừng quá sức và cha nói gì mình cũng nghe hết.
Như vậy có phải người cha luôn luôn ở bên cạnh với con mình mà thương đâu, có khi thương là phải đi xa. Cho nên vấn đề ở hay đi, xuất hiện hay ẩn tàng, từ ái hay la rầy, chúng chẳng có gì dứt khoát cả. Đem cặp mắt của Phật mà nhìn, có người la mới nên, có người khen mới nên, có người nói xẳng mới nên, có người nói ngọt mới nên, có người phải bỏ đi mới nên, có người phải ở bên cạnh mới nên. Cho nên, xẳng hay ngọt ,…cũng không nhất định, đừng ngạc nhiên, vì sao mà phải nói xẳng xẳng- xẳng mà nên- thuốc đắng nhả tật. Sử dụng phương tiện một cách diệu dụng như vậy, chỉ có mắt Phật mới biết, chỉ có hạnh của phật mới làm nổi, với mắt thường của chúng ta không thấy nổi, với hạnh của chúng ta không làm nổi, nên ta đem cái tâm tầm thường, cái tâm của phàm phu mà định lượng cái tâm của Phật, định lượng việc làm của phật, định lượng cái thấy, cái biết của phật, thì làm sao mà định lượng nổi.

Mỉm cười với vạn hữu:
Cho nên, Phật là tượng trưng cho pháp giới tính bình đẳng- Ngài đã thấy pháp giới tính bình đẳng và từ nơi pháp giới tính bình đẳng ấy, Ngài sử dụng vô số phương tiện để mà giáo hóa vô số chúng sanh.
Khi nhìn đời, bằng đôi mắt của Phật, là biết rằng, tuy chúng sanh ở nơi địa ngục, chịu trăm đắng ngàn cay, chịu trăm thứ bất như ý như vậy, nhưng mà Phật tính nơi họ cũng không bao giờ bị giảm sút. Bởi vì, Phật tính vốn là như vậy, nên khi ở trong địa ngục Phật tính cũng không giảm, khi vào Niết bàn phật tính cũng không tăng. Chứ không phải khi đọa xuống địa ngục, thì Phật tính của mình bị teo lại, khi lên Niết Bàn Phật tính của mình nở ra. Phật tính ở đâu và lúc nào cũng vậy, không có teo hay nở gì cả. Phật tính không có tăng, không có giảm, ở địa ngục không giảm, lên Niết Bàn không tăng. Thấy phật tính nơi hết thảy chúng sanh không tăng, không giảm chi cả, đó là cái thấy của chư phật. Phật tính nơi hết thảy chúng sanh là không tăng, không giảm, nhưng phiền não, nghiệp chướng nơi chúng sanh thì có tăng, có giảm, có cạn, có sâu, nên thời gian tu tập chuyển hóa phiền não có chậm, có nhanh.
Cho nên, Đức Phật nhìn cái gì, nhìn ai Ngài cũng mỉm cười. Còn như chúng ta có mỉm cười được đâu. Ta nhìn cái gì hay nhìn ai mà ta vui, ta khoái chí là ta cười toe toét. Còn ta nhìn cái chi mà không cười được, không vui được, thì cái mặt của ta, như cái mặt của cậu câu ếch. Đối với Phật, không có cái vui nào làm cho Ngài bị lay động, không có cái buồn nào làm cho Ngài phải ray rứt. Chuyện vui - buồn là chuyện của thế gian, chuyện của nhục nhãn, chuyện của thiên nhãn. Đối với tuệ nhãn cần có vui, có buồn, vì biết rằng ngũ dục là nguy hiểm, mà may quá mình vượt qua ngũ dục cho nên cảm thấy vui.
Pháp nhãn thì còn thấy các pháp không có tự tính, cho nên còn có trạch pháp, còn có những phần vui buồn vi tế. Vì vậy, còn có đối tượng để bước tới và còn có cái để đoạn và chứng.
Phật nhãn thì không còn có cái gì để hướng tới, không còn cái gì để đoạn trừ, không còn cái gì để chấp nhận và không còn cái gì để từ chối. Ngay đó mà thấy rõ và thể nhập pháp thân. Ngay đó là đi, ngay đó là về, chứ không có đi hay về ở đâu nữa. Cho nên, dưới cái nhìn của bậc giác ngộ, mọi sự đều viên mãn, đều trọn vẹn, không có tỳ vết, cái nhìn không còn sứt mẻ.
Từ cái nhìn đó mà chất liệu thanh thoát, yên lắng và trọn vẹn của Phật tỏa ra một cách tự nhiên. Cho nên, Đức Phật đã hiến tặng cho thế gian nụ cười đẹp nhất là nụ cười mỉm. Hiến tặng cho thế gian những bước đi đẹp nhất là bước đi thanh thoát, và đã hiến tặng cho cuộc đời cái nhìn đẹp nhất là cái nhìn bao dung, thương yêu và sâu lắng. Còn mình vui thì mình cười toạc ra, buồn thì nhăn mặt lại. Chính vì vậy mà mình chạy theo với khổ đau. Khổ với cái vui và vui với cái khổ, khổ vui trong cái thường tình như vậy. Cho nên, nụ cười viên mãn nhất, trọn vẹn nhất, cứu cánh nhất, toàn hảo nhất đó là nụ cười mỉm; nụ cười mỉm có gốc rễ từ nơi một cái tâm an tịnh hoàn toàn, từ nơi tâm của một vị tự chủ, một bậc giác ngộ hoàn toàn.

Báu vật đầy nhà tha hồ sử dụng:
Như vậy, đại chúng thấy, khi mà mình khéo sử dụng phương tiện của đôi mắt để mà tu tập, để mà đối diện với cuộc đời, để mà chuyển hóa, thì những gì đã đi qua trong đời sống của mình, hay những gì mình đang tiếp xúc và sẽ tiếp xúc bằng ý thức chánh niệm tỉnh giác, thì mình có thể thăng tiến được cái nhìn của mình, từ nhục nhãn cho đến Phật nhãn.
Khi mình biết sử dụng nhục nhãn để tu tập, thì nhục nhãn cũng là điều kiện để tạo ra phước đức cho ta.
Nhục nhãn mà còn là điều kiện để tạo ra phước đức cho mình huống chi là thiên nhãn, huống chi là tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn,
Cho nên, chúng ta hãy cố gắng thực tập chánh niệm trong đôi mắt bình thường của chúng ta, khi nhìn các sự vật, thì chắc chắn rằng, chúng ta sẽ có rất nhiều hạnh phúc và an lạc và chúng ta sẽ khám phá ra những điều kỳ diệu ngay nơi bản thân của mọi sự hiện hữu.
Lỗ tai của chúng ta cũng vậy, cũng là một phương tiện đặc biệt, nếu chúng ta khéo sử dụng, chúng cũng sẽ giúp ta tạo ra vô lượng phước đức.
Lỗ tai của mình là lỗ tai của kẻ phàm tục, gọi là nhục nhĩ, nhưng cũng có thể là lỗ tai của chư thiên, gọi là thiên nhĩ. Mình nghe một cách phàm tục là mình vừa nghe lỗ tai, nó lại liền ra ở lỗ miệng, nghe mà không gạn lọc gì hết, nghe rồi sao nguyên y văn bản chính, nghe như vậy gọi là nghe theo kiểu nhục nhĩ. Như vậy, ngoài ngũ nhãn, ta còn có ngũ ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­nhĩ: Nhục nhĩ, thiên nhĩ, pháp nhĩ, tuệ nhĩ, phật nhĩ.
Như vậy, chúng ta không những có ngũ nhãn mà còn có ngũ nhĩ. Khi đã có ngũ nhĩ rồi, thì nhất định phải có ngũ tỷ: Nhục tỷ, thiên tỷ, tuệ tỷ, pháp tỷ, phật tỷ.
Trong kinh Đức Phật dạy, có một thế giới gọi là thế giới Hương Tích , chúng sanh ở nơi thế giới đó, họ học đạo là nhờ ngửi mùi thơm mà họ nhận ra được đạo lý và đi tới với chánh pháp, đi tới với đời sống giác ngộ. Cho nên, có những thế giới tác dụng của chúng sanh thiên về đôi mắt, có những thế giới tác dụng của chúng sanh thiên về đôi tai hoặc thiên về lỗ mũi hoặc thiên về tâm ý.
Cho nên, chúng ta khéo sử dụng lỗ mũi của chúng ta trong sự tu tập thì chúng cũng có khả năng tạo ra vô lượng phước đức, vô số chất liệu hạnh phúc và an toàn trong đời sống cho chúng ta. Chúng ta không phải chỉ có ngũ tỷ mà chúng ta còn có ngũ thiệt: Nhục thiệt, thiên thiệt, tuệ thiệt, pháp thiệt và phật thiệt.
Như vậy, chúng ta ưa hạnh phúc và an lạc cỡ nào trong ngũ thiệt, thì chúng ta có thể sử dụng miệng lưỡi cỡ đó, để tạo ra phước đức cũng như sự an lạc và hạnh phúc cỡ đó cho chúng ta.
Chúng ta cũng có ngũ thân: Nhục thân, thiên thân, tuệ thân, pháp thân và phật thân.
Dùng thân nào để đi đến cõi nào là tùy chúng ta. Chúng ta ưa sử dụng nhục thân để đi đến cõi sinh tử, thì chúng ta cứ sử dụng để đi. Cho nên, chúng ta có thân này rồi, nếu chúng ta tu tập có chánh niệm tỉnh giác, thì chúng ta muốn sử dụng thân nào trong năm thân để tạo ra phước đức, hạnh phúc và an lạc là quyền của chúng ta. Và ý cũng vậy, chúng ta cũng có ngũ ý.
Phàm ý là ý của kẻ phàm tục, trong tâm ý của kẻ phàm tục nó đầy dẫy tham, sân, si, ích kỷ, ghen tuông. Nếu chúng ta sử dụng tâm ý nầy mà đi đến với nhau, thì cuộc sống của chúng ta trở nên phàm tục, và ta là phàm tục.
Thiên ý là tâm ý của chư Thiên, là tâm ý ưa chuộng điều thiện và không ưa điều ác. Chính tâm ý ấy tạo ra thiên đàng hạnh phúc. Trong gia đình cha con, mẹ con đi đến với nhau bằng Thiên ý, thì mình có thể tạo ra thiên đàng ngay trong gia đình mình, chứ đâu có phải đợi đến sau khi chết mới lên thiên đàng. Thiên đàng hạnh phúc phải được tạo ra ngay ở trong mỗi giây phút và mỗi không gian mà chúng ta đang sống.
Vậy, Thiên ý là gì? Đó là tâm ý hướng về điều thiện, tâm ý đến với nhau bằng điều thiện và yêu mến điều thiện một cách tự nhiên. Nếu chúng ta biết sử dụng tâm ý đó, để tu tập, để ứng xử với nhau, thì thiên đàng đối với chúng ta không còn là một ước muốn mà là một hiện thực.
Tuệ ý là tâm ý của trí tuệ, tức là tâm ý thấy rõ thế gian là vô thường, ngũ dục của thế gian là nguy hiểm, cho nên không tham, không mong cầu đối với chúng, cần phải tránh xa chúng. Ta không tranh giành cái lợi trong ngũ dục của thế gian, nên ta không bị trở thành con thiêu thân ở trong thế gian này. Pháp ý là tâm ý của chánh pháp. Tâm ý ấy có nội dung của tuệ giác, không những chỉ thấy rõ tính chất vô tính của năm uẩn, mà còn thấy rõ tính chất vô tính nơi mỗi uẩn, khiến cho tâm ý vượt ra khỏi sự mắc kẹt đối với những vọng tưởng sai lầm về một bản ngã cố hữu nơi tự thân và một tự tính cố hữu nơi vạn hữu.
Đã có pháp ý là phải có Phật ý, tức là mình sử dụng hạt giống toàn giác ở nơi tâm thức mình mà thiết lập, bảo toàn tịnh độ, và bảo toàn nhân dân ở nơi cõi tịnh độ trong ý hướng của bồ đề tâm. Cho nên, bồ đề tâm tức là tâm ý của Phật. Từ nơi tâm ý nầy, mà chư Phật thành tựu báo thân và biểu hiện vô số ứng hóa thân để hóa độ vô số, vô biên chúng sanh. Và cũng từ nơi tâm ý nầy, mà chư phật đã thiết lập vô số cảnh giới tịnh độ, làm quê hương giác ngộ cho hết thảy chúng sanh.
Thưa đại chúng,
Có mắt là ta có phương tiện để tu tập. Giữa thế gian nầy ai cũng có mắt cả, nên ai cũng có thể tu tập được cả. Cho nên, đừng bao giờ nói rằng, chỉ có chị đó mới tu được, còn mình không tu được; hay nói rằng, chỉ có mình tu được, còn người khác không thể tu được. Nói như vậy là nói ẩu, nói như vậy là nói không đúng với chân nghĩa. Nói như vậy, kinh Pháp Hoa cho rằng, là nói theo tâm trạng mặc cảm tự ti của kẻ bần cùng, khốn khổ, hay nói theo tâm trạng mặc cảm tự tôn của kẻ đầy kiêu ngạo.
Có mũi, có hơi thở, có không khí là ta có thể tu tập được rồi, đợi chi phải có nhà to, đợi chi phải có chùa lớn, đợi chi phải có tiền bạc nhiều! Ta hiện hữu giữa đời nầy với sự đầy đủ của thân thể và tâm hồn là một sự hiện hữu hết sức mầu nhiệm rồi, ta không cần phải đi tìm kiếm sự mầu nhiệm nào nữa cả. Thở đã là mầu nhiệm, huống gì thở cĩ chánh niệm và tuệ giác. Thở đã là mầu nhiệm, huống gì thở với cả một tâm hồn rộng lớn, thương yêu và chân thật.
Cho nên, ta có hơi thở là ta có thể tu tập được rồi. Ta có thể sử dụng hơi thở để an tịnh thân thể và tâm ý. Ta có mắt là ta có điều kiện để tu tập được rồi. Ta hãy đem mắt thương mà nhìn cuộc đời, như bồ tát Quán Thế Âm đã nhìn vậy. Và ta hãy đem mắt tuệ mà thấy tự tánh không sinh diệt nơi tánh thấy của ta và nơi vạn hữu, như bồ tát Quán Thế Âm đã từng thấy.
Có tai là ta có thể tu tập được rồi. Ta hãy dùng lỗ tai của ta để lắng nghe bao nhiêu âm thanh bất hạnh của chúng sanh giữa cuộc đời, nhằm làm vơi đi bao nỗi khổ đau của họ. Và ta hãy sử dụng lỗ tai vốn có của ta để lắng nghe lại tính nghe vốn không sinh diệt ở nơi chính chúng ta. Ngài Quán Thế Âm, tu lỗ tai thôi mà Ngài đã thành tựu không những nhĩ căn viên thông mà còn viên thông luôn cả sáu căn nữa. Nên, mình lạy Ngài mấy cũng không thấy vừa, mình niệm danh hiệu của Ngài mấy cũng không thấy chán. Bao nhiêu hình tượng của Ngài ta tạc ra, bao nhiêu lễ đài, bao nhiêu chùa tháp tôn thờ, bao nhiêu hình ảnh biểu hiện về hạnh từ bi cứu khổ của Ngài mà loài người chúng ta đã biểu hiện một cách cung kính. Chùa Hương cũng là hóa thân của Ngài Quán Thế Âm. Công chúa Diệu Thiện cũng là hóa thân của Quán Thế Âm do tu tập thành tựu nhĩ căn mà ứng hiện. Cho nên, ta có lỗ tai là ta có một phương tiện rất mầu nhiệm để tu tập.
Vậy, trong chúng ta có ai không có lỗ tai không? Không những một lỗ mà còn có cả hai lỗ nữa. Như vậy, ta giàu to. Tất cả chúng ta đều là giàu. Chúng ta toàn là tỷ phú hết, thế mà cứ cho rằng mình là nghèo.
Có miệng, có thân, có ý là có điều kiện để tu tập, là ta đã có điều kiện để thực hiện điều thiện, không phải đợi lớn tuổi hay nhỏ tuổi, không đợi phải có cơm ăn áo mặc, không đợi phải có nhà ở sang trọng, hay đợi có bất cứ cái gì nữa! Có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, là ta đã có khả năng thực hiện điều thiện, để thăng hoa bản thân và làm đẹp cuộc đời.


(trích đoạn từ MÂY TRẮNG HỎI ĐƯỜNG QUA ...Còn tiếp phần 2

BÀI ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI QUAN TÂM

một tờ kinh thiêng

một tờ kinh thiêng


ALBUM LỄ TANG THÂN PHỤ Thượng Tọa THÍCH THÁI HÒA

http://tuanvietnam.vietnamnet.vn

Theo Dấu Chân Thầy

Phim Pictures "Con đường xưa Thầy đi" nhân ngày vào Gia Định-Saigon từ 01 đến 07- 3 - Tân Mão- 2011.


Lên đầu trang
Xuống cuối trang