Home
PHÁP THOẠI
NGHIÊN CỨU
PHẬT HỌC
THIỀN HỌC
VĂN HOÁ
LUẬT HỌC
TĂNG GIÀ
TUỔI TRẺ
CHUYÊN ĐỀ
HOẰNG PHÁP
THUVIENCOPHAP.org | Hôm nay:
Thứ Ba, 28 tháng 12, 2010
NẺO VÀO TUỆ KHÔNG
Thích Thái Hòa
Tinh yếu của hệ thống kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa nằm nguyên vẹn trong một câu bốn chữ của Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là “NGŨ UẨN GIAI KHÔNG”
Tinh yếu này đã được đức Thế Tôn dạy ngay cho năm anh em Kiều Trần Như tại vườn Nai, sau khi Ngài giảng xong tứ Thánh Đế.
Đức Thế Tôn nói: “…nếu chúng Thánh đệ tử thuộc Thanh Văn của Như Lai, thì hãy quán chiếu năm thủ uẩn nầy, biết rõ nó không phải là tôi, không phải là của tôi.
Quý vị quán chiếu như vậy rồi, quý vị biết rõ thế gian không có ai đuổi bắt, không có cái gì để bắt đuổi, và cũng không có cái đuổi bắt.
Điều đó chỉ tự thân giác ngộ chứng đạt Niết Bàn. Việc sinh tử đã hết – Phạm hạnh đã lập thành – Điều đáng làm đã làm xong – Không còn tái sinh nữa”[1].
Lại nữa, cũng trong kinh Tạp A Hàm, đức Phật dạy: “Này các Tỷ khưu, có nghiệp báo mà không có tác giả. Có hành vi và kết quả của hành vi mà không có cái gọi là chủ thể. ”[2]
Trong Tiểu Không Kinh, thuộc kinh tạng Pàli, đức Phật dạy: “này Ananda, sau khi chứng đạt, ta sẽ an trú cứu cánh vô thượng không tánh. Như vậy, này Ananda, các ông cần phải học tập. ”[3]
Và ở trong Đại Không Kinh, đức Phật đã giải thích thế nào là “nội không”, “ngoại không” và thế nào là “nội ngoại không” cho các Thánh đệ tử nghe. [4]
Như vậy, tinh thần Bát Nhã cũng đã nằm ngay ở trong kinh điển A Hàm và Nikàya, chứ không phải chỉ có ở trong kinh điển Đại Thừa.
Trong bộ Đại Bát Nhã, thì Tâm Kinh Bát Nhã được rút ra từ TẬP ƯNG PHẨM, phẩm ba, quyển một của Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập, sau phần đức Thế Tôn nói bảy không cho tôn giả Xá Lợi Phất. Bảy không gồm có:
Tánh không = không của bản tánh.
Tự tướng không = không của tự tướng.
Chư pháp không = không của vạn hữu.
Vô sở đắc không = không của cái không thể đắc.
Vô pháp không = không của các pháp vô vi.
Hữu pháp không = không của các pháp hữu vi.
Vô pháp hữu pháp không = không của các pháp vô vi và hữu vi. [5]
Và nội dung Bát Nhã Tâm Kinh ta cũng thấy nằm trong Đại Bát Nhã, Tương Ưng Phẩm, trước phần đức Phật nói tương ưng và không tướng với 20 loại không gồm:
Nội không: tánh không của các pháp nội tại.
Ngoại không: tánh không của các pháp ngoại tại.
Nội ngoại không: tánh không của các pháp nội ngoại tại.
Không không: tánh không của cái không.
Đại không: tánh không của cái rộng lớn.
Thắng nghĩa không: tánh không của chân lý tuyệt đối.
Hữu vi không: tánh không của các pháp hữu vi.
Vô vi không: tánh không của các pháp vô vi.
Tất cánh không: tánh không của cái tối hậu.
Vô tế không: tánh không của cái không ngằn mé.
Tán không: tánh không của sự phân tán.
Vô biến dị không: tánh không của cái không biến dị.
Bản tánh không: tính không của bản tính.
Tự tướng không: tánh không của tự tướng.
Cọng tướng không: tánh không của cọng tướng.
Nhất thế pháp không: tánh không của hết thảy pháp.
Bất khả đắc không: tánh không của cái không thể ý niệm, không thể nắm bắt.
Vô tánh không: tánh không của cái vô thể.
Tự tánh không: tính không của tự tính.
Vô tánh tự tánh không: tánh không của vô tánh và tự tánh. [6]
Tuy rằng, Tánh Không được các kinh luận phân tích có nhiều loại, nhưng tánh không ở nơi năm uẩn được hiểu như thế nào là tùy theo mức độ thực hành để chứng nghiệm pháp và mức độ đoạn tận vô minh của từng hành giả.
Ở đây, Bát Nhã Ba La Mật Đa đã thể hiện tánh không của năm uẩn như thế nào trong hệ kinh tạng của mình?
Tánh không là tánh chân thật của mọi sự hiện hữu. Trong mọi sự hiện hữu ấy, không có sự hiện hữu nào mang tính tự thể cá biệt của ngã và pháp.
Điều này được trực nhận bằng Bát Nhã mà không bằng lý trí tỷ giảo hay suy nghiệm.
Bát nhã là gì? Đó là trí tuệ toàn hảo và thâm diệu, trí tuệ ấy do quá trình tu tập quán chiếu “KHÔNG LÝ” mà sinh khởi, nên Bát Nhã còn gọi là “KHÔNG TRÍ” hay “KHÔNG TUỆ”. Nghĩa là trí tuệ do thực hành quán chiếu “KHÔNG LÝ” đem lại.
KHÔNG LÝ là chỉ cho “NHƯ LÝ” của vạn hữu mà đại biểu là năm uẩn. KHÔNG TRÍ hay KHÔNG TUỆ là chỉ cho NHƯ TRÍ của Bát Nhã đang soi chiếu năm uẩn. Chỉ có NHƯ TRÍ mới soi chiếu và trực nhận được NHƯ LÝ của năm uẩn. TRÍ thẩm thấu bên trong của LÝ rõ thấy sắc uẩn không phải là tự ngã đã đành mà ngay mỗi yếu tố tạo nên sắc uẩn cũng không có tự thể của ngã và pháp. NHƯ TRÍ soi chiếu thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn cũng đều như vậy. Nghĩa là trong các uẩn không có ngã thể và pháp thể đã đành mà ngay trong các đơn tố hợp thành các uẩn, nó cũng không hề có ngã thể và pháp thể.
Như vậy, ở đây NHƯ TRÍ hay BÁT NHÃ đã khám phá ra ngay trong “ngũ uẩn” không phải chỉ là “giai không” về ngã mà còn “giai không” về pháp nữa.
NHƯ TRÍ còn khám phá ra tự tính không ở nơi vạn hữu, không phải là không trơn, lại càng không phải là cái không đối với cái có, mà nó là một thực tại tính của vạn hữu.
Thực tại tính ấy, không hề lệ thuộc không gian và thời gian. Bất cứ cái gì nằm trong khuôn khổ tương hợp của không gian và thời gian thì cái đó là có sinh có diệt, có uế có tịnh, có tăng có giảm, có hợp có ly, có vô minh, có hành, có thức, có danh sắc cho đến có lão-tử; cái đó có Khổ - Tập - Diệt - Đạo; cái ấy có trí và có đắc.
Trái lại, NHƯ TRÍ hay BÁT NHÃ thấy rõ TÁNH KHÔNG là tính như thật của mọi sự hiện hữu, vượt ra ngoài cái sinh diệt tương hợp của không gian và thời gian, nên tánh không ấy là không tất cả những gì thuộc về đối đãi nhị nguyên.
Các pháp duyên khởi, tự tính của nó là không. Nhưng TỰ TÍNH KHÔNG không phải là duyên khởi. Tự tính không chỉ là nền tảng cho duyên khởi và các pháp duyên khởi từ đó mà hình thành, nên ở trong Trung Quán Luận, Ngài long thọ nói:
“以 有 空 義 故
一 切 法 得 成
若 無 空 義 故
一 切 則 不 成
Dĩ hữu không nghĩa cố
Nhất thiết pháp đắc thành
Nhược vô không nghĩa cố
Nhất thiết tắc bất thành”[7]
Nghĩa là:
Vì do có Tánh Không
Nên mọi pháp đều thành.
Nếu không có Tánh Không
Các pháp đều chẳng thành.
Các pháp thành tựu là thành tựu nơi thể tánh của KHÔNG. Bởi vì tự tính của các pháp là KHÔNG, nên mọi sự hiện hữu của các pháp từ nơi tự tính ấy mà biểu hiện. Tách trà biểu hiện từ tự tính không của nó, do đó đương thể của tách trà là KHÔNG, chứ không phải sau khi tách trà bị hủy diệt rồi mới là không.
Do thẩm thấu được tự tính không của vạn hữu, nên Bát Nhã lúc nào cũng đi đầu và chủ đạo cho những hoạt động của Bồ Tát Đạo, để mọi hoạt động này không bị điều khiển bởi sắc, thọ, tưởng, hành và thức; hay để các hoạt động không bị sai sử bởi các tham dục của tâm ý đối với sắc, thọ, tưởng, hành và thức hoặc những hoạt động này không bị điều động bởi vô minh, hay bởi những ngã tưởng và pháp tưởng hiện khởi từ tập khí của vô minh.
Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Vong thất Bồ Đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh Ma nghiệp”, nghĩa là quên mất tâm Bồ Đề mà thực hành các thiện pháp, thì đó là những hoạt động của Ma.
Do đó, Bồ Tát Đạo đặt trên nền tảng của Bồ Đề, Bồ Đề chính là Bát Nhã. Mọi hoạt động của Bồ Tát đều được rọi soi bởi Bát Nhã.
Nếu một hành động bố thí không được rọi soi bởi Bát Nhã, hành động ấy có thể mất hiệu quả và lạc hướng.
Chẳng hạn, khi một hành động bố thí không được rọi soi bởi Bát nhã, hành động ấy chỉ có thể đem lại phước báu trong cõi trời, cõi người chứ không thể thành tựu sự giác ngộ tối thượng. Hoạt động bố thí có Bát Nhã rọi soi thì hành động ấy không mang tính ngã và pháp, do đó đưa hành giả vượt thoát khổ đau và đạt Niết Bàn tuyệt đối.
Các hoạt động trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn và thiền định của Bồ Tát cũng vậy, nghĩa là chúng luôn luôn được soi rọi bởi Bát Nhã và Bát Nhã soi rọi cho mọi hoạt động ấy đi tới cứu cánh Niết Bàn, hay đi tới đời sống của Phật. Đời sống của Phật chính là Bát Nhã.
Mọi hoạt động của Bồ Tát đều được rọi soi bởi Bát Nhã, nên mọi hoạt động ấy đều vượt qua mọi ý niệm về ngã và pháp. Do mọi hoạt động ấy vượt qua hệ lụy của ngã và pháp, nên Bồ Tát hoạt động mà không thấy sở đắc không thấy cái sở đắc .
Nên trong kinh Trường A Hàm, đức Phật dạy: “Như Lai sử dụng phương tiện nói pháp mà không thủ đắc, nói hoàn toàn KHÔNG mà có thành tựu”[8].
Chính vô sở đắc mới thành tựu, mới đắc cái đắc chân thật.
Kinh Bát Nhã nói: “Vô sở đắc” không có nghĩa là không đắc mà kinh chỉ phủ nhận tâm chấp thủ ngã và pháp là sắc, là thọ, là tưởng, là hành, là thức.
Lại nữa, sắc, thọ, tưởng, hành và thức là duyên khởi giả hữu, chúng như mộng, như huyễn, như ảo ảnh, như bọt nước, như sương, như điện chớp, nên Bồ Tát không hành theo cái giả hữu đó mà hành theo Bát Nhã. Do hành theo Bát Nhã nên gọi là “vô sở hành”, vì là “vô sở hành” nên là “vô sở đắc”, nghĩa là không đắc theo cái ảo ảnh của cái sắc, thọ, tưởng, hành, thức biểu hiện.
Và chính hành với cái hành “vô sở đắc”, nên mọi hoạt động của Bồ Tát, tâm không có chướng ngại, không còn có sợ hãi, không còn có điên đảo và đạt tới Niết Bàn tuyệt đối. Và chư Phật ba đời, vì không sở đắc, nên các Ngài an trú thường trực ở trong Bát Nhã.
Bởi vậy, khi tu tập, hành giả không dừng lại ở nơi có và không của pháp đối đãi; mà lấy cái có, cái không ấy làm đối tượng quán chiếu bằng Bát Nhã.
Và hỏi các pháp tại sao nó có, tại sao nó không, tại sao nó sinh, tại sao nó diệt? Cái gì sinh, cái gì diệt để rồi từ đó khám phá ra TỰ TÍNH KHÔNG, là tính không sinh không diệt của vạn pháp như vua Trần Nhân Tông nói:
一 切 法 不 生
一 切 法 不 滅
若 能 如 是 解
諸 佛 常 現 前
Nhất thiết pháp bất sinh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền.
Nghĩa là:
Tất cả pháp không sinh
Tất cả pháp không diệt
Nếu thường hiểu như vậy,
Chư Phật ngay trước mắt.
Cũng vậy, cây tùng, cây khế, cây mai là những thực tại mầu nhiệm ở trước mắt chúng ta, nhưng trong ta không có Bát Nhã, ta không thể nhận ra cái bất sinh diệt đang có mặt trong từng sát na sinh diệt của nó. Và vì không có Bát Nhã, nên ta không thể vượt qua sự chấp ngã và pháp nơi tri kiến của ta.
Nếu nhận ra được điều đó, ta mỉm cười và tự nhủ: “Phật ở đâu thì con ở đó, con ở đâu thì có Phật ở đó”. Và rõ ràng Niết Bàn không phải là bên kia, sinh tử không phải là bên này mà ở ngay trước mắt.
Thích Thái Hòa
[1] Tạp A Hàm số 102, trang 499, Đại Tạng Tân Tu 02.
[2] Kinh đã dẫn, trang 92, Đại Tạng Tân Tu 02.
[3] Trung bộ 03, trang 252-259, Đại Học Vạn Hạnh 1975.
[4] Trung bộ 03, tr260-275, Đại Học Vạn Hạnh 1975.
[5] Đại Bát Nhã, bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập, tr223a, Đại Tạng Tân Tu 08.
[6] Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh 05, bản dịch của Ngài Huyền Tráng, trang 23, Đại Tạng Tân Tu 05.
[7] Trung luận 04, trang 33a, Đại Tạng Tân Tu 30
[8] Trường A Hàm, trang 35, Đại Tạng Tân Tu 01.
Kinh điển
2010-12-28T05:05:00-08:00
2010-12-28T05:05:00-08:00
Loading...