Thứ Ba, 26 tháng 7, 2011

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Chơn Như Khai sơn chùa Đông Lâm và chùa Báo Ân, Huế

Share |


Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Chơn Như

Khai sơn chùa Đông Lâm và chùa Báo Ân, Huế

Thích Thái Hòa

Xuất thân:

Hòa thượng xuất thân trong một gia đình khoa bảng, thế danh Nguyễn Tấn Thuyên, sinh năm Đinh Hợi, 1889, tại làng Vĩnh Xương, quận Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên. Hiện nay là làng Vĩnh Xương, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.

Thân sinh là cụ Nguyễn Tấn Thành, chủ sự hội vụ thí sinh.

Thân mẫu là cụ bà Phan Thị Thanh. Hai ông bà có truyền thống đạo Phật lâu đời, có nếp sống thanh nhã, sinh hạ được ba người con: hai trai và một gái, Hòa thượng là người con trai đầu.

Năm lên tám tuổi, Hòa thượng được song thân cho theo học chữ Nho học với các bậc sĩ phu trong làng.

Năm 18 tuổi, Hòa thượng thi tú tài. Đường khoa bảng đến đây trở ngại, Hòa thượng phải trở về dùi kinh mài sử để đợi ngày rồng mây gặp hội.

Trong thời gian này, Hòa thượng đã có lần cảm nhận được câu chuyện “Hoàng lương mộng” của Lữ Sinh đời Đường, rồi thấm thía rằng, danh vọng chỉ là gợn nắng trưa hè, giàu sang như ráng chớp, ân ái như tơ tằm tự ràng, tự buộc.

Do những cảm nhận này, mà Hòa thượng bắt đầu chuyển sang hướng đi siêu việt giải thoát.

Chí nguyện thoát tục:

Có lẽ do túc duyên với Phật pháp đã có từ đời trước, nên khi chuyển đổi cách nhìn, Hòa thượng ngày đêm tự mình nghiên cứu học hỏi sách Phật, và đã thấm nhuần giáo lý căn bản của đạo Phật rất nhanh.

Năm 20 tuổi, Hòa thượng từ biệt gia đình, khăn gói lên đường, đến kinh đô Huế bái yết Hòa thượng Huệ Minh, chùa Từ Hiếu để xin xuất gia.

Hòa thượng Huệ Minh thấy phong thái thư sinh, cốt cách đĩnh đạc, liền hỏi:

Ông xuất gia để cầu gì?

Hòa thượng trả lời: Con xuất gia để cầu làm Phật.

Ngài Huệ Minh nói: Phật ở đâu mà cầu.

Hòa thượng trả lời: Phật nơi tâm con.

Ngài Huệ Minh nói: Ông đã biết như vậy, sao còn cầu làm Phật để làm gì.

Hòa thượng thưa: Dẫu con biết rằng, Phật ở tâm con, vốn thật lìa tâm không có Phật. Nhưng nay con chưa biết con đường nào để đoạn vọng quy chơn, nên cúi mong Thầy hứa khả cho con được xuất gia học đạo.

Ngài Huệ Minh thấy người học trò có chí lớn, có nhiều túc duyên trong Phật pháp, nên liền nhận cho xuất gia làm đệ tử.

Tu học và hoằng pháp:

Sau khi được xuất gia, Hòa thượng rất tinh cần trong việc học, tu tập.

Năm, Mậu Thân, 1908, Hòa thượng đã được Ngài Huệ Minh truyền thọ Sa-di giới, với pháp danh là Trừng Nguyên, pháp tự Quang Hiệp.

Vốn đã có chí nguyện siêu tục, xu hướng nhất thừa, nên kể từ khi được Bổn sư truyền trao giới pháp, Hòa thượng ngày đêm vâng giữ hành trì, siêng năng học hỏi Phật lý làm cho tuệ nghiệp mỗi ngày mỗi sáng, đức hạnh mỗi lúc mỗi nhuần.

Năm Canh Tuất, 1910, Hòa thượng được Bổn sư cho thọ tỷ-kheo Bồ-tát giới; đại giới đàn được tổ chức tại chùa Phước Lâm, Hội An, do Ngài Vĩnh Gia làm Đàn đầu, Ngài Tâm Truyền ở chùa Báo Quốc, Huế làm Yết ma. Năm này, Hòa thượng 21 tuổi.

Và cũng chính trong năm này, Hòa thượng đã được Bổn sư ban cho pháp hiệu là Chơn Như, với bài kệ đắc pháp : "Chơn như thiệt tướng bản như như, thể dụng toàn chương nhất phái chư, phóng khứ thâu lai vô biệt vật, tùng tri xúc xứ tự phi cừ". Ngài Huệ Minh ban cho Hòa thượng pháp hiệu Chơn Như với hàm ý khen ngợi rằng, công hạnh tu học của Hòa thượng rất khế hợp với chí nguyện ban đầu, tức là chí nguyện làm Phật.

Thọ đại giới xong, Hòa thượng được Bổn sư chỉ dạy giới luật trong một thời gian khá lâu.

Năm Ất Mão, 1915, Hòa thượng khai sơn chùa Đông Lâm, Huế (thuộc xã Thủy Xuân, Tp Huế).

Năm Nhâm Tuất, 1922, Hòa thượng theo học lớp Cao đẳng Phật học với Ngài Huệ Pháp tại chùa Thiên Hưng, Huế, và Ngài Phước Huệ, chùa Thập Tháp, Bình Định.

Năm Canh Ngọ, 1930, Hòa thượng khai sơn chùa Báo Ân, Huế.

Năm Giáp Tuất, 1934, Hòa thượng làm Đệ tứ tôn chứng tại giới đàn Thạch Sơn, Quảng Ngãi.

Năm Mậu Dần, 1938, Hòa thượng nhận lời mời của Phật tử Việt kiều tại Lào đến Savanakhet và Viêng-chăn để thăm viếng và hoằng pháp.

Năm Kỷ Mão, 1939, Hòa thượng trở về chùa Báo Ân, tiếp tục sứ mệnh hoằng pháp, dìu dắt Tăng Ni và tín đồ tu tập, hướng đến giác ngộ, giải thoát.

Trong công hạnh tu tập, hoằng pháp, Hòa thượng kết hợp cả Thiền tông, Tịnh độ và Mật giáo.

Thiền và Tịnh là để kiến tánh thành Phật, còn Mật giáo là để nhiếp hóa quần cơ, khiến những kẻ ương ngạnh phải hồi đầu Phật pháp.

Bởi vậy, trong sự nghiệp hoằng pháp, Hòa thượng đã nhiếp hóa được tất cả mọi căn cơ.

Đồ chúng xuất gia, Ngài đã giáo hóa rất nhiều, tuy nhiên, chỉ còn lại một số quý vị kế thừa như tỷ-kheo Thích Quảng Tuyên, Thích Chánh Trí, Thích Đảnh Lễ...

Phật tử tại gia được Hòa thượng làm Bổn sư truyền giới không phải là ít.

Những ngày cuối cùng:

Báo thân được hình thành do sự kết hợp bởi ngũ uẩn, nên sanh-lão-bệnh-tử là điều ắt phải có đối với pháp hữu vi.

Mùa hạ năm Mậu Tý, 1948, Hòa thượng thị tịch lúc 3 giờ ngày 04 tháng 05, trụ thế 59 năm, với 38 Hạ lạp, thuộc đời 42, phái thiền Lâm Tế.

Bảo tháp của Ngài hiện được tôn trí tại đồi thông chùa Từ Hiếu, Huế.

Chú thích: BBT sẽ sớm ghi linh ảnh, bảo tháp và ngôi Chùa Báo Ân tại Cố Đô Huế. Để bổ sung minh chứng cho bài Tiểu sử trên.


VÀI NÉT LỊCH SỬ VỀ

CHÙA PHƯỚC DUYÊN

Địa điểm:

Chùa Phước Duyên chiếm diện tích khoảng 4000m2, nằm dưới chân ngọn rú Vi, sát bờ sông Bạch Yến, thuộc thôn An Ninh thượng, xã Hương Long, quận Hương Trà (nay thuộc thành phố Huế), tỉnh Thừa Thiên-Huế.

Vị trí của chùa có tính cách độc lập, ở xa dân cư khoảng 200m về phía Đông Bắc, chung quanh chùa chỉ núi đồi mồ mả, cảnh trí yên tĩnh, thật rất thích hợp cho đời sống thực hành tâm linh.

Người khai sáng chùa:

Chùa Linh Mụ ngự trị từ đỉnh đồi cao, tỏ vẻ khí thế oai hùng thanh thoát của đạo phong dân tộc, tiếng chuông ngân vang để làm tỉnh thức hết thảy mọi người, thì trái lại chùa Phước Duyên nằm tận chân đồi, ẩn mình một cách khiêm tốn, để thấm sâu vào huyết mạch tín ngưỡng của dân làng.

Chùa được xây dựng năm 1948, do Hòa thượng Thích Đảnh Lễ khai sáng.

Khi Hòa thượng mới đến, nói đây là một vùng đất hoang dã, chỉ có một thảo am nhỏ để thờ Quan Công mà thôi.

Theo truyền thuyết, do các vị bô lão trong làng kể lại, thì vùng đất này, trước đây đã có tạo dựng một ngôi chùa gọi là chùa Ốc Tiêu.

Chùa Ốc Tiêu, do ai xây dựng và xây dựng từ đời nào không ai biết được. Nhưng đến đời Tây Sơn thì bị phá mất hoàn toàn.

Khi Hòa thượng Đảnh Lễ đặt chân đến vùng này, hẳn nhiên không còn một dấu tích gì để gọi là chùa Ốc Tiêu nữa cả. Cũng có thể do dựa vào truyền thuyết ấy, nên khi ngôi chùa Phước Duyên được hình thành, pháp phái Thiên đồng có tặng hai câu đối:

“Ốc Tiêu cổ tự An trĩ huy hoàng hồng chung chấn địa.

Phước Duyên tân tự Ninh giang thắng cảnh pháp cổ thông thiên”.

Mặc dù có truyền thuyết như vậy, nhưng không có một tư liệu, hoặc một dấu tích gì để chứng minh cho truyền thuyết ấy cả.

Do đó, chúng tôi kết luận rằng, chùa Ốc Tiêu trước đó, có lẽ chỉ là một thảo am nhỏ của một thiền sư nào đó, từ chùa Linh Mụ vào dựng lên để ẩn tu.

Nhưng về phương diện lịch sử, chúng ta nên nói chùa Ốc Tiêu là một dấu ấn lờ mờ không chính xác. Mà nên kết luận rằng, chùa Phước Duyên đã được xây dựng từ năm 1948, do Hòa thượng Thích Đảnh Lễ khai sáng.

Lối kiến trúc và bất động sản:

Chùa kiến trúc theo lối chữ khẩu, phía trước là chùa gồm có ba gian và hai liêu, xây hướng về phía Đông Nam, phía Tây Nam là giảng đường, phía Tây Bắc là hậu đường, phía Đông Bắc là khách đường, kế tục khách đường là một dãy nhà dài năm gian, vừa để phòng khách và thực trù.

Lối kiến trúc và xây dựng chùa như thế, đã được Hòa thượng Đảnh Lễ kiến thiết, hình thành qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn hoàn chỉnh nhất là năm 1965.

Ngoài những nhà cửa có tính cách bất động sản ấy, chùa còn có một mẫu hai sào ruộng do Hòa thượng tạo mãi, trong đó, năm sào tọa lạc tại đồng ruộng Thành Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, bảy sào tại đồng ruộng thôn An Ninh thượng, xã Hương Long, Tp Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế.

Sự kế thừa:

Năm 1968, Hòa thượng Đảnh Lễ viên tịch trao lại chức vụ trú trì cho đệ tử của Ngài là tỷ-kheo Thích Lương Phương.

Cuối năm 1968 tỷ-kheo Thích Lương Phương đã chỉnh trang lại chùa chiền, tái thiết lại những nhà cửa bị hư hỏng do biến cố Mậu Thân gây ra.

Năm 1972, trùng tu lại khách đường.

Năm 1986, trùng tu lại ngôi nhà năm gian cận khách đường.

Năm 2000, chùa được đại trùng tu lần 2 theo mô hình kiến trúc mới; hoàn thành vào năm 2001 (gồm Chánh điện, Thiền đường).

Chùa phước duyên

Chùa Phước Duyên bước đầu là một vùng đất hoang dã tịch liêu, trải qua những giai đoạn trùng tu kiến thiết, ngày nay ngôi chùa khá đồ sộ, khang trang, phong cảnh trở nên thơ mộng hữu tình, và cũng đón nhận rất nhiều kẻ tăng, người tục về đây tu học.

Vai trò đóng góp:

Trên phương diện hoằng pháp chùa đã gắn liền vào đời sống dân quê, và đã gây ảnh hưởng rất sâu đậm tinh thần Phật giáo vào nếp sống hàng ngày của họ.

Chùa cũng là nơi nương náu tinh thần và chỗ gởi gắm tâm linh của dân chúng quanh vùng; tiếng chuông chùa không những chỉ thôi thúc dân quê bỏ ác làm lành, nghĩ đến vấn đề siêu thoát, khổ đau, mà còn là tiếng đồng hồ thức tỉnh cho họ biết giờ khắc, để sắp xếp mọi công việc sinh hoạt hằng ngày.

Chùa kể từ khi mới xây dựng đến nay, với thời gian vô cùng khiêm tốn, nhưng cũng gắn liền với những chứng kiến giữa đạo Pháp và dân tộc.

Năm 1963, Đại đức Thích Thanh Tuệ đã tự thiêu, để chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm và đòi hỏi đáp ứng Năm nguyện vọng của Phật giáo đồ.

Đại đức Thích Thanh Minh xuất thân từ chùa Phước Duyên, cũng tự thiêu năm 1966, tại chùa Linh Sơn, Đà Lạt, Lâm Đồng để cúng dường Pháp nạn.

Năm 1982, Đại đức Thích Thái Nguyên-người Tăng sĩ đầu tiên, đã thi hành nghĩa vụ quân sự, trong thời đại xã hội chủ nghĩa, hơn bốn năm bốn tháng. Nay đã trở về, tiếp tục sự nghiệp hoằng hóa độ sinh.

Trên đây là một vài đóng góp khiêm tốn, rất hy vọng rằng, ngày mai chùa sẽ góp phần nhiều hơn vào sự nghiệp phụng đạo giúp đời, để xứng đáng là một thành viên trong cộng đồng của đạo Pháp và dân tộc.

Nguồn từ: Hoằng Pháp.Info

BÀI ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI QUAN TÂM

một tờ kinh thiêng

một tờ kinh thiêng


ALBUM LỄ TANG THÂN PHỤ Thượng Tọa THÍCH THÁI HÒA

http://tuanvietnam.vietnamnet.vn

Theo Dấu Chân Thầy

Phim Pictures "Con đường xưa Thầy đi" nhân ngày vào Gia Định-Saigon từ 01 đến 07- 3 - Tân Mão- 2011.


Lên đầu trang
Xuống cuối trang